Một vài ngày sau đó, tôi thật sự nhận được lời mời phỏng vấn từ một công ty nước ngoài nổi tiếng. Tôi cứ nghĩ mình bị hoa mắt rồi, vị trí mà tôi sẽ thực tập lại là trợ lý giám đốc đấy! Thế nhưng, điều thần kỳ nhất chính là… tôi không hề có ấn tượng gì về việc nộp hồ sơ cho công ty này… Trước đây, tôi chưa từng xem xét đi xin việc tại một công ty nước ngoài nằm trong danh sách Fortune 500 [1], bởi vì đa phần thực tập sinh ở những nơi như thế này đều là thạc sĩ của những trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước… Nào có cửa cho tôi chen chân…
Vậy thì khả năng cao là tôi đã đớp phải một vận may khỉ gió nào đó. Mà thôi kệ, cứ đi phỏng vấn trước đã rồi hẵng tính sau.
Buổi phỏng vấn diễn ra hết sức suôn sẻ. Sau khi nghe tôi tự giới thiệu về bản bản thân, bên nhân sự hỏi tôi có thể chịu được cường độ làm việc của công ty nước ngoài hay không, sau đó trực tiếp đề nghị tôi đi gặp giám đốc. Cũng ngay trong ngày hôm ấy, tôi đã nhận được thư mời làm việc của công ty.
Toàn bộ sự tình xảy đến hệt như một giấc mơ.
Công việc này so với những công việc trước đây quả là cách biệt một trời một vực.
Bằng một cách thức kỳ diệu và khó hiểu nào đó, chớp mắt tôi đã thuộc về tầng lớp trí thức văn phòng, hằng ngày làm việc trong những tòa nhà cao chọc trời. Mỗi ngày, tôi học cách gửi email bằng tiếng Anh, làm poster, đặt phòng họp, tổ chức sự kiện, đặt vé máy bay cho giám đốc, báo cáo thu chi, cập nhật danh sách nhân viên mới, mua sắm, dạy tiếng Hoa cho giám đốc, bưng nước rót trà……
… Tất nhiên, ai ngủ mơ rồi cũng sẽ có lúc thức giấc. Sau khi đi làm được khoảng một tuần, tôi chợt nhận ra công việc này mang đến cho tôi nhiều áp lực hơn bao giờ hết.
Đầu tiên, tiền lương một tháng của sinh viên thực tập chỉ tầm ba ngàn tệ (gần 11 triệu). Tuy nhiên, hình như những thực tập sinh ở đây đều sở hữu một cái “quặng” tiền không bao giờ vơi: Ăn đại bữa cơm trưa cũng mất khoảng 30 tệ, tham gia đại một cái sự kiện nào đó cũng phải tiêu 70-80 tệ, gọi đại một chiếc taxi cũng tốn hết 30-40 tệ. Mà những chuyện này mới chỉ là bề nổi. Một lần tham gia sự kiện còn đòi hỏi đủ loại quần áo, trang điểm, đầu tư các thứ. Suốt quá trình đợi chờ tiền lương chuyển vào tài khoản ngân hàng, tôi cũng chỉ có thể tiếp tục quẹt thẻ tín dụng, hoặc cật lực từ chối các cuộc xã giao.
Thứ hai, tôi chỉ là một ma mới với bằng cấp tầm trung cố gắng hòa nhập vào tập thể, nhìn kiểu nào cũng thấy rất mực lạc lõng. So với mọi người, bất kể là kiến thức chuyên môn, kỹ năng giao tiếp hay cả những khía cạnh sinh hoạt khác, tôi cũng đều kém hơn bọn họ nhiều. Ví dụ như lần đi chung thang máy với một vị cấp trên người Đức, tôi cảm thấy khá ngượng ngùng. Tiếng Đức thì một chữ bẻ đôi tôi cũng không biết, còn tiếng Anh của tôi dùng để tiếp rượu vài câu ở quán bar thì được chứ từ vựng chuyên ngành tôi hoàn toàn mù tịt. Những người thực tập khác đều mang theo máy tính xách tay cao cấp, làm video cực kỳ mượt và rõ nét. Trong khi đó chiếc máy tính “đồ cổ” tôi mua cách đây năm năm đã sớm bị cho ra rìa, vì vậy tôi đành dùng máy tính mà công ty cấp, mỗi lần làm poster hay làm video đều phải vừa tra gu gồ vừa làm, đơn giản là do máy tính chuyên gia bị lỗi. Ngoài ra, do số lượng nhân viên nước ngoài đông đảo, mỗi lần họp hành mọi người đều sử dụng tiếng Anh, mà tôi ngồi đó như nghe người ta tụng kinh vậy. Nếu nhỡ có hỏi trúng tôi thì bầu không khí lập tức trở nên gượng gạo. Những thực tập sinh khác thường tụ lại thành một nhóm để thảo luận về trường đại học học cũ của mình, kể về luận văn tốt nghiệp thạc sĩ viết những gì, hoặc bàn về chuyện đại dịch Covid đã ảnh hưởng nghiêm trọng như thế nào đến giá vé máy bay, nào là phải tốn những 30 000 tệ mới có thể mua được vé về nước (hơn 100 triệu đồng). Bọn họ đều là thạc sĩ, tiến sĩ của các trường đại học hàng đầu trong và ngoài nước, nên khi nghe tôi bảo mình là sinh viên năm tư mới tốt nghiệp ra trường thì cực kỳ ngạc nhiên, thậm chí có người còn hỏi tôi có phải tôi đã đi “cửa sau” hay không.
Tôi cũng rất bất ngờ mà, có được không vậy? Tại sao công ty lại tuyển dụng tôi kia chứ?
Song, tôi cũng không thể tùy ý như trước đây, hễ không muốn làm nữa thì xin nghỉ. Một cơ hội béo bở như thế này, có cắn răng chịu khổ thì tôi cũng sẽ lựa chọn kiên trì đến cùng.
Thi thoảng, có lẽ là do “tới tháng”, tôi sẽ nghĩ tới việc mình là một con sâu mọt ở dưới đáy xã hội không cách nào thích ứng được với công việc mới, khiến cảm xúc của chính mình cực kỳ bất ổn. Những lúc như thế, tôi sẽ nằm dài trên giường và mắng Tử Dạ:
“Cái tên nhóc chết tiệt này, ngày hôm đó sao lại dọa chị? Em có biết sàn gạch men cứng cỡ nào không? Đầu gối của chị đau lắm đó biết không? Rõ ràng bản thân làm sai mà không chịu xin lỗi? Sao em lại tấn công Nhã Nhã? Em không có miệng sao, sao lại không giải thích? Rốt cuộc quá khứ của em là như thế nào? Chấp nhận chị khó đến vậy sao? Em đang ở đâu thế hả? Sao em cứ trốn miết không chịu xuất hiện vậy? Cái đồ ngốc này, đồ quỷ nhát gan, hoang tưởng, biến thái…”
Tuy nhiên, Tử Dạ vẫn không đáp lại. Những lúc ấy, tôi sẽ khui vài lon bia ra uống để tự chuốc say chính mình. Tiếc là bia quá dở, mà cơ thể tôi cũng không dễ say như vậy.
Tôi vẫn thường lôi đống “đồ cúng” ra, rồi tự trách mình quá ngốc. Dưới gầm giường là tỷ thứ tôi tích trữ cho Tử Dạ, trong đó có một chiếc đèn chiếu sao (mà tôi mua tặng con gái giám đốc, mua 1 tặng 1), một cái túi thơm, một cái nón, một xấp giấy ghi chú mới toanh, một bộ đồ ngủ tốn hết 99 tệ của tôi, một đôi dép nam size 42 giá 5 tệ…… Trong tủ lạnh ở phòng bếp, tôi còn để năm cái bánh kem nhỏ. Vừa định ngửi thử thì trời ạ, nó không những cứng như đá mà còn lên mùi, phải đổ đi thôi.
Rất nhiều đêm, tôi cẩn thận nghe ngóng những âm thanh từ tầng trên… Thế nhưng, chẳng có bất kỳ tiếng động nào cả.
Tôi dần dà nhận ra rằng có lẽ Tử Dạ đã không còn sống ở trên gác mái nữa.
Chính cậu đã nói là sẽ bảo vệ tôi cơ mà…..
Cái đồ lừa gạt!
Buổi tối, tôi nằm trên giường nhìn chằm chằm vào những hoa văn màu vàng sẫm trên trần nhà.
Chiếc bóng của những con thiêu thân bé nhỏ in hằn trên nền sáng trông giống như hình dáng của ma quỷ rất đỗi ngang ngược. Càng nhìn lâu, những hoa văn tĩnh ấy trông càng quỷ dị, tựa như những con mắt có thể chuyển động. Những con mắt lớn nhỏ kia đang nhìn chăm chú vào tôi. Càng nhiều con mắt xuất hiện biến thành một lớp da người, mà hình dáng này hệt như một người đàn ông đang nằm co quắp…
Ơ, đó chẳng phải là Tử Dạ sao?!
Cậu thoạt nhìn như một con thú bị nhốt trong lồng, trên người chằng chịt những vết thương.
Tử Dạ nắm lấy thanh sắt của lồng giam và gọi tôi thảm thiết:
“Chị ơi! Giúp em… giúp em với!”
Tôi bất chợt tỉnh giấc.
Đây có lẽ chỉ là một giấc mơ mà thôi… Nhưng sao giấc mơ này quá đỗi chân thật, quá cụ thể rồi. Thanh âm kêu cứu của Tử Dạ như vẫn còn văng vẳng đâu đây trong căn phòng tĩnh mịch… Tôi xoa bóp hai bên thái dương, vô thức nhìn lên trên trần nhà. Tôi bàng hoàng phát hiện ra có một dòng chữ lớn được viết bằng máu tươi:
CỨU EM VỚI!
Đây đích xác là chữ viết của Tử Dạ! Dòng chữ đó đang nhạt dần, rồi mau chóng biến mất!
Sau đó, bất luận là tôi bật hay tắt đèn, hoa văn trên trần nhà vẫn chẳng có tí dị thường nào hết.
Song, có một điều tôi vô cùng chắc chắn, đó chính là: Tử Dạ đã xảy ra chuyện. Tôi phải đi cứu cậu ấy ngay!!!
Chú thích:
[1] Danh sách Fortune 500 là danh sách hàng năm của tạp chí Fortune bao gồm 500 công ty lớn nhất của Mỹ được xếp hạng theo tổng doanh thu cho các năm tài chính tương ứng của họ. (theo Vietnambiz.vn)