Tình cảm giữa Chu Huyên và Tuyên đế rốt cuộc vẫn cùng người khác bất đồng, hai người lúc trước chính là cùng bước trên con đường hành thích vua đoạt vị. Nhớ lại đoạn lịch sử huy hoàng này, cuối cùng Tuyên đế cũng lấy lại được chút dũng khí.
Lúc trước tình thế khó khăn như vậy, hắn vẫn có thể đem Thành Đế cùng đám quan lại không hàng phục tân quân diệt trừ. Hiện tại đã làm hoàng đế, chẳng lẽ còn phải sợ một yêu thần nhỏ bé hay sao?
Đời trước trái ôm phải ấp tất nhiên là sung sướng, nhưng hôm nay giai nhân cùng hắn đều đã vô duyên, cưỡng cầu thì được ích gì? Trăm điều lấy đức làm đầu, hắn muốn vì người trong thiên hạ làm gương, tu tâm dưỡng tính, từ đây giữ đức độ không háo sắc là được. Dù sao kiếp này hắn như cũ vẫn là hoàng đế, Chu Huyên cũng chưa từng tạo phản, Tây Nhung nội loạn, thiên hạ thái bình, chẳng qua là bên người thiếu vài vị giai lệ, hắn còn có cái gì không thỏa mãn!
Con người nếu biết cúi đầu nhìn xuống, sẽ thấy được bản thân hạnh phúc biết bao nhiêu. So với Thành Đế đã hóa thành xương trắng, so với Tàng Vân thái tử tổn thất hơn mười vạn binh mã, ngôi vị hoàng đế không nhất định có thể bước lên, hắn đời này vẫn xem như được ông trời ưu ái, khiến người người đố kỵ.
Tuyên đế không biết là triệt để hiểu ra hay là bất chấp tất cả, trải qua trận cảnh tỉnh này của Chu Huyên, rốt cuộc lĩnh ngộ được, bản thân nhìn lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống lại chẳng thấy ai bằng mình, một lần nữa lấy lại dũng khí sinh tồn.
Chu Huyên thấy ánh nhìn xuất thần rạng rỡ dần trong mắt Tuyên đế, tâm mới yên ổn một ít, phân phó cung nhân sắc thuốc cho Tuyên đế, lại tiến vào chiếm giữ Duyên Phúc Cung, xem chừng hắn ăn uống nghỉ ngơi. Y công vụ bận rộn, không thể ở lâu trong cung, vì vậy mỗi ngày vào bữa trưa và bữa tối liền vào cung, đợi nhìn thấy Tuyên đế ăn cơm, uống thuốc xong thì mới rời đi.
Cấm vệ quân trong cung đều đã đổi thành thân tín của y, cùng nội thị liên hệ tin tức, đem tình hình Tuyên đế thời thời khắc khắc đều truyền vào tai y. Dưới sự canh chừng, bức bách của Chu Huyên, thân thể Tuyên đế được điều dưỡng kĩ lưỡng rốt cuộc chuyển biến tốt đẹp.
Độc tố trong cơ thể Tuyên đế đã thanh trừ không sai biệt lắm, người cũng lên tinh thần không ít. Chu Huyên ngày ấy vào cung, nhìn chằm chằm hắn uống thuốc bổ một hồi, lấy khăn thay hắn lau nước thuốc nơi khóe miệng xong, liền đề nghị: “Thất Lang lâu ngày ở trong thâm cung, gần đây ngay cả cửa cung cũng không chịu ra, tâm tình tự nhiên buồn bực khó chịu. Hôm nay dù sao không có sự vụ gì, không bằng theo ta đi ra ngoài nhìn xem, giải sầu một chút cũng tốt?”
Tuyên đế cách cửa sổ nhìn ra hoa viên bên ngoài, trời trong xanh, cỏ cây cũng xanh mướt, suy tư một lát liền đáp ứng: “Nếu A Huyên đã mời, trẫm tự nhiên phải cho ngươi chút mặt mũi.”
Hai người liền thay đổi thường phục, Tuyên đế phái hai thị vệ đi theo hộ giá, kêu nội thị tìm một chiếc xe ngựa, ra khỏi cung liền theo hướng tây một đường hướng về phía ngoài thành mà chạy.
Hiện giờ đúng vào tháng sáu, ban ngày ánh nắng mặt trời cực kì gay gắt, lại đang giữa lúc ban trưa, trên đường người qua lại thưa thớt, hai người ngồi trong xe giống như ngồi trên bếp lò, mồ hôi chảy ra thấm ướt một mảng. Bên đường có bán trái cây ướp băng, Tuyên đế nghe thấy tiếng rao to, liền muốn gọi người mua tới ăn.
Chu Huyên ấn giữ lại hắn không cho người đi mua, chỉ nói rằng dư độc trong cơ thể hắn chưa hoàn toàn loại bỏ, thân mình suy yếu không thể ăn đồ lạnh, nói xong liền lấy khăn thấm nước thay Tuyên đế lau mặt để giảm nhiệt độ cho hắn. Thẳng đến khi ra khỏi cửa thành, gió từ đồng không trống trải thổi vào trong xe, mới thoáng mát mẻ vài phần. Tuyên đế nhìn con đường đất nhỏ, có cảm giác như đang đi Hòa Ân Tự, liền đối với Chu Huyên cười nói: “Phật pháp tuy rằng tinh diệu, nhưng lại không có tác dụng gì với trẫm, A Huyên nếu đưa trẫm đi nghe mấy lão tăng tham thiền giảng kinh, trẫm thật tình không có hứng thú.”
Chu Huyên cười nói: “Không phải mấy lão tăng đó, mà là Hòa Ân Tự gần đây thay đổi đầu bếp, nghe nói thức ăn chay làm cực kì ngon, hiện giờ trong kinh rất nhiều người đều mượn cớ lễ Phật mà vào ăn cơm chùa. Ta cũng là nghe Hồng Lư Tự khanh Lục Kỳ nói, còn chưa có thử qua, vừa lúc mời bệ hạ cùng đi ăn thử.”
Tuyên đế đã không ít ngày bỏ bê việc thưởng thức món ăn ngon, nghe nói là đồ chay nổi danh, lòng cũng sinh ra vài phần hiếu kỳ, trêu ghẹo nói: “Hôm nay theo ý ngươi một lần, nếu không ngon, trẫm sẽ đi phủ của ngươi dùng bữa tối.”
Hai người nói nói cười cười, lại đem nội loạn của Tây Nhung ra nghị luận một phen, rốt cuộc mới tới Hòa Ân Tự. Chùa miếu ở trong núi, được cây rừng bao bọc, đi vào bên trong liền cảm thấy mát lạnh sảng khoái, lại có phật hương lượn lờ, tiếng chuông vang vọng tận mây xanh, khách nhân dâng hương cũng không tính là quá nhiều.
Tuyên đế lôi kéo Chu Huyên du ngoạn thưởng cảnh một phen, nhìn ngắm hết thảy cảnh sắc xinh đẹp nơi núi rừng. Nửa năm trước hắn tới đây là vì cùng Chu Huyên mưu đồ chuyện hành thích vua, hiện giờ đã bước lên ngôi vị hoàng đế, lúc ngắm cảnh tâm tình cũng khác trước rất nhiều. Những cảnh sắc từng vì vội vàng mà không nhìn kỹ, nay xem lại liền thấy thanh lệ khéo léo, tràn ngập mỹ cảm trang nghiêm hùng vĩ.
Đi đến trong Quan Âm điện, liền nghe thấy có một thanh âm già nua vang lên: “A di đà phật, hai vị thí chủ có muốn bói một quẻ không?”
Tuyên đế theo thanh âm nhìn lại, quả nhiên bên sườn điện có một cái bàn dài, phía trên bày ống thẻ, còn có giấy bút đặt ở một bên. Vị tăng nhân kia tuổi ước chừng năm sáu mươi tuổi, tướng mạo tươi tốt, thần thái an tường. Tuyên đế không biết là ai, nhưng nghĩ nhất định không phải là cao tăng có thể vào cung.
Chu Huyên cũng không nhận biết y, cầm lấy ống thẻ lắc lắc, hỏi: “Đại sư muốn thay chúng ta giải sâm?”
Lão tăng mỉm cười, đứng ở phía sau bàn dài, hướng về Tuyên đế nói: “Thí chủ trong lòng có nghi hoặc, Phật tổ tự nhiên biết. Lão nạp tuy phật pháp không tinh, nhưng có thể thay thí chủ nhìn xem vận số tương lai một phen. Thí chủ muốn gieo quẻ hay là đoán chữ?”
Hiện tại hòa thượng đều có thể chuyển sang làm đạo sĩ được rồi!
Tuyên đế chửi thầm một câu, lại vẫn không cưỡng lại được muốn biết tương lai mình thế nào, liền từ trên bàn cầm lấy giấy bút, tùy ý viết xuống một chữ ‘Vấn’, nói: “Đã là xem bói cầu thần, vậy thỉnh đại sư vì ta đoán một chữ ‘Vấn’ này đi.”
Lão tăng tiếp nhận giấy nhìn một hồi, thở dài: “Chữ viết đầy đặn, gân cốt nội tàng, thí chủ viết chữ này cực tốt, chỉ là khi viết đến nét cuối cùng, lực đạo không đủ. Không biết thí chủ muốn hỏi công danh hay là gia trạch?”
Tuyên đế muốn hỏi nhất chính là tuổi thọ, lại sợ kết quả không tốt, nghe xong khó chịu, giữa chừng liền sửa lời thành: “Hỏi con nối dõi.”
Hòa thượng kia liền cười nói: “Chữ ‘Vấn’ bên trong có chữ khẩu, đúng là một nhà hưng thịnh, sinh con thêm miệng ăn. Thí chủ yên tâm, chữ này cực tốt, trong nhà thí chủ liền muốn có thêm người……”
Một câu còn chưa nói xong, ngoài cửa điện liền vang lên một thanh âm trong trẻo: “Đại sư nói có chút không đúng rồi. Chữ ‘Vấn’ trái phải đều là chữ quân, người muốn hỏi quẻ này chính là……”
Tuyên đế nghe thanh âm kia thập phần quen tai, liền cùng Chu Huyên theo hướng đó nhìn lại, thấy từ ngoài cửa điện bước vào một thư sinh trẻ tuổi khí vũ hiên ngang, mặc một thân quần áo đơn giản, mặt đầy tươi cười, ý tứ thản nhiên mà nói vọng vào trong điện.
Nhưng vừa thấy Tuyên đế, người nọ tức khắc thu liễm lại vẻ tươi cười, cũng không hề tiếp tục chuyện đoán chữ, mà chắp tay hướng Tuyên đế thi lễ: “Phượng Huyền tham kiến…… Tuyên tiên sinh, tham kiến Chu quân.”
Chu Huyên liền đáp lễ, Tuyên đế cũng phất phất tay nói: “Nguyên lai là Phượng lang. Phượng lang cũng biết đoán chữ? Mới vừa rồi vị đại sư này nói chữ ta cực tốt, trong nhà chắc chắn muốn có thêm người, như thế nào Phượng lang ngược lại nói là không đúng?”
Phượng Huyền thần sắc càng thêm cung kính, cúi đầu đáp: “Đoán chữ bất quá là một trò chơi mà thôi, tiên sinh không cần để bụng. Đại sư nói quả thật có đạo lý, Phượng Huyền không dám trước mặt tiên sinh khoe khoang……”
Lão tăng sau bàn dài có chút châm chọc nói: “Phượng thí chủ vẫn luôn giỏi nhất là đoán chữ, sao hôm nay lại không dám lộ ra bản lĩnh? Hay vị thí chủ này là một đại thuật sĩ, nên Phượng thí chủ sợ làm trò cười cho thiên hạ?”
Phượng Huyền cười khổ một chút, đang muốn trả lời, Tuyên đế liền ép hỏi: “Phượng lang mới vừa rồi đã nói chữ này đoán không đúng, vậy ngươi liền thay ta đoán một hồi đi. Ngươi nói chữ ‘Vấn’ trái phải đều là chữ quân, theo đó thì có ý nghĩa gì?”
Phượng Huyền có chút khó xử, mang theo vài phần mong đợi nhìn về phía Chu Huyên, ngóng trông y đem Tuyên đế khuyên ngăn, đừng tiếp tục hỏi nữa. Chu Huyên ủ rũ buồn bã cười một tiếng: “Chuyện mới vừa rồi muốn hỏi, cả ba người chúng ta sớm đã biết kết quả, còn có cái gì không thể nói?”
Bị hai người khăng khăng ép hỏi, Phượng Huyền thật sự không dám kháng lệnh, đành đi đến bên chiếc bàn dài, chỉ vào chữ ‘Vấn’ kia nói: “Chữ ‘quân’ ở đây là chỉ quân tử. Có câu ‘quân tử suốt ngày hăng hái hoạt động’*, theo chữ này của tiên sinh mà nói, chính là ứng với một bộ quẻ Càn. Mà quẻ Càn này lại là quẻ lục xung, việc muốn cầu hoàn toàn không thể thành, con cháu tự nhiên cũng……”
[*Đây là hào cửu tam trong quẻ Thuần Càn, thuộc một trong 64 quẻ số của Kinh Dịch. Nguyên câu của nó là: “Cửu tam: quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu.” (九三。君子終日乾乾。夕惕若,厲,無咎)
Giải nghĩa từ:
Càn càn 乾乾 – hăng hái hoạt động
Tịch 夕– buổi tối
Dịch 惕 – kinh sợ, lo lắng
Lệ 厲 – nguy hiểm
Vô 無 – không
Cữu 咎 – lỗi lầm
Nói thêm: Chữ ‘Vấn’ hán tự là 問, ở giữa có chữ khẩu 口 nghĩa là cái miệng, hai bên là chữ quân君 trong quân tử君子. Lưu ý, chữ quân khi ghép với các chữ khác để tạo thành chữ mới thì nó sẽ biến thể một chút.
Lục xung là từ dùng để chỉ các địa chi tương xung tương khắc với nhau. Quẻ lục xung trái ngược hẳn với quẻ lục hợp là một quẻ tốt lành, mọi thứ đều tương ứng tương hợp với nhau.
Editor: để hiểu được cái đoạn bói trên, ta đã phải tra cứu Kinh Dịch lẫn thiên can địa chi, thuật ngữ bói toán này nọ muốn lòi con mắt, may là phần hán tự ta có chút hiểu biết vì đã từng học qua tiếng Trung, chứ không thôi là không hiểu nó nói cái gì luôn, huhu. Nếu có gì sai sót mong bà con bỏ qua cho =)))]
Y nhìn tươi cười trên mặt Tuyên đế nhạt dần, thần sắc lộ ra bi thương, trong lòng liền khẩn trương, vội vàng nói: “Loại phương pháp nhìn chữ bói toán này chưa chắc đã chính xác. Tiên sinh nếu thật muốn bói, ta liền mượn ba đồng tiền của đại sư, vì tiên sinh gieo một quẻ?”
Xem bói có ích lợi gì, hiện giờ hắn sủng hạnh đều là nam tử, có thể có con nối dòng mới là lạ! Trong lòng Tuyên đế bi phẫn không thôi, nhưng không muốn làm Phượng Huyền kinh sợ, bèn miễn cưỡng cười nói: “Không cần. Ta cũng biết quy tắc của bói toán, một việc không thể xem hai lần, bói nữa cũng chưa chắc có thể chuẩn. Lại nói, ta hiện tại không có thê thiếp, trước mắt tự nhiên sẽ không có con nối dõi, Phượng lang nói đã cực chuẩn, không cần lại bói.”
Chu Huyên dưới sự che lấp của ống tay áo, âm thầm cầm lấy tay hắn, dùng sức nắm chặt: “Hôm nay là đi giải sầu, những thứ khác không cần nghĩ, vào trong tịnh xá nghỉ ngơi một lát, nếm thử thức ăn chay nơi này đi.”
Tuyên đế đáp: “Được” xong lại quay đầu hỏi Phượng Huyền: “Phượng lang muốn đi một mình hay là cùng đi? Theo chúng ta đi nếm thử thức ăn chay?”
Tuyên đế là thật tình mời, nhưng Chu Huyên lại không muốn có người quấy rầy cơ hội ở riêng của hai người, liền liếc mắt nhìn Phượng Huyền một cái. Phượng Huyền tự nhiên hiểu được ý tứ của y, liền lên tiếng từ chối: “Ta hôm nay tới là vì muốn xin đại sư một thang thuốc trị bệnh suyễn, lát nữa còn phải về phủ sớm, hai vị không cần chờ ta.”
Tuyên đế kinh ngạc nói: “Phượng lang có bệnh suyễn? Trẫm sao lại không biết?” Đời trước không có chuyện này a! Phượng Huyền chính là tướng quân ra trận giết địch, đừng nói sinh bệnh, ngay cả bị thương cũng rất ít, như thế nào đời này lại bị bệnh?
Phượng Huyền lắc đầu đáp: “Một vị đường tỷ của ta lúc trước gả cho con trai thứ mười ba của Uyển Lăng Vương, ngày hôm trước từ phía nam gởi thư đến, nhờ huynh của ta tìm giúp một phương thuốc trị bệnh suyễn cho thế tử phi. Trùng hợp ta từng nghe đại sư nói qua có thể trị được bệnh này, liền thừa dịp nghỉ ngơi tới xin thuốc.”
Uyển Lăng Vương thế tử phi có bệnh suyễn? Vậy con nối dõi nàng sinh có phải hay không cũng trưởng thành không khỏe mạnh? Tuyên đế có chút lo lắng, lại sợ nếu cứ hỏi tiếp việc này sẽ vắng vẻ Chu Huyên, liền gật đầu với Phượng Huyền, không tiếp tục truy cứu, lôi kéo Chu Huyên đi ra ngoài: “Phượng lang xin thuốc là việc quan trọng, chúng ta đây liền đi trước một bước.”
Hai người nắm tay cùng rời khỏi Quan Âm điện, bước đi thông thả, vừa đi vừa thưởng thức phong cảnh, chậm rãi mà đến tịnh xá dành cho khách, hai thị vệ mang theo lúc rời khỏi cung liền nghênh đón bọn họ vào.
Trong phòng đã chuẩn bị sẵn thức ăn chay, vào cửa liền ngửi thấy hương thơm phảng phất. Tuyên đế cho lui thị vệ, cùng Chu Huyên ngồi đối diện với nhau, để y thay mình rót rượu chia thức ăn.
Chu Huyên cùng Tuyên đế đối ẩm mấy chén, bỗng nhiên vươn tay ngang qua mặt bàn, cầm lấy bàn tay đang nâng chén rượu của Tuyên đế, hỏi: “Thất lang cảm thấy cần phải có con nối dòng, muốn nạp phi?”
Tuyên đế lắc đầu, tay kia buông đũa cầm lấy tay Chu Huyên: “Chỉ cần thiên hạ vẫn thuộc về họ Hạ, trẫm có con hay không, lại có gì quan trọng? Trương Quý Ưng từng nói qua: ‘Lưu lại hậu danh, không bằng tức thời một chén rượu’. Với trẫm mà nói, lưu lại con cháu, không bằng tức thời một mảnh thái bình giang sơn. A Huyên, trẫm hiện tại có ngươi bên cạnh, trong triều lại có hiền thần, đã vô cùng thấy đủ.”
Chu Huyên buông xuống hai mắt, bên trong đã thoáng ẩn hiện tia sáng: “Có được lời này của Thất lang, ta cũng nên thấy đủ. Tương lai việc triều đình, ta sẽ vì ngươi mà dốc hết sức lực, khiến cho ngươi không còn vì bất kì hậu hoạn nào mà ưu phiền, chỉ cần ngươi vĩnh viễn giống như ngày hôm nay, tin tưởng ta trọng dụng ta…… yêu ta.”