Tarzan 3: Luật Của Rừng Già

Chương 6: Đoàn Thuỷ Thủ bốn chân




Chiếc thuyền độc mộc chở đội thủy thủ kỳ quái từ từ rời bờ cát. Con thuyền hướng mũi ra eo biển. Tuy vậy, thoạt đầu của cuộc hành trình nó phải vượt qua khá nhiều ghềnh đá mới thoát được ra ngoài biển lớn. Tácdăng, Mugambi và vượn Acút phải cầm chèo bởi vì ven bờ biển lúc này gió vẫn thổi quẩn quanh. Tấm buồm vá víu của Tácdăng chưa phát huy được tác dụng của nó.

Ở đầu mũi thuyền, báo Sêta nằm thu mình co quắp ngay dưới chân Tácdăng. Chàng phải gọi Sêta đến nằm bên cạnh để cách ly nó với đội thủy thủ còn lại. Đối với các loài thú dữ, cảnh giác đến mấy cũng không thừa. Đối với Sêta chỉ cần ai đó vô tình làm phật ý, nó có thể chồm lên cắn đứt cổ họng. Mugambi ngồi bên tay lái. Ngay trước mặt anh ta, Acút ngồi xổm, chờ thay ca. Trong lòng thuyền là mười hai con vượn khỏe mạnh, vui tính. Cả mười hai chàng thủy thủ này cứ quay ngang quay ngửa, quan sát mặt nước biển đang mỗi lúc một trải rộng về phía chân trời.

Chuyến đi khởi đầu hết sức tốt đẹp. Sau khi vượt qua những mỏm đá ven bờ, cánh buồm bắt đầu no gió. Mũi thuyền phăng phăng cắt sóng tiến lên. Nhưng chỉ một lúc sau, sóng biển mỗi lúc một lớn. Con thuyền bắt đầu chao đảo ngả nghiêng. Trông thấy sóng lớn, mười hai con vượn mất hết cả nhuệ khí thủy thủ. Chúng bắt đầu la hét, ôm đầu, nhắm mắt, chẳng khác gì hành khách của chuyến đi. Chính lúc này A cút đã thể hiện vai trò thủ lĩnh của mình. Acút phải len lỏi đến vỗ về từng thành viên của bộ lạc mình. Bỗng một con sóng lớn lừng lững xô tới bốc con thuyền nhảy vọt lên cao. Đàn vượn sợ quá, rú lên ầm ĩ. Có con bị hất lên cao, rơi chúc đầu xuống lòng thuyền. Rất may là Tácdăng và Acút kịp thời đưa tay ra đỡ rồi thu xếp cho đàn vượn ngồi thật cân đối, bám chắc vào mép thuyền. Sau một hồi náo loạn, con thuyền đã ổn định được trật tự.. Gió vẫn lớn, sóng vẫn cả, nhưng đàn vượn đã quen dần với sự chao đảo, bập bềnh trên biển lớn.

Nhìn chung, cuộc hành trình diễn ra tương đối thuận lợi. Nửa giờ sau, từ phía chân trời đã xuất hiện những vệt tím thẫm của đất liền. Vì ngồi ở mũi thuyền, Tácdăng là người trông thấy đầu tiên. Nhưng lúc này trời đã xế chiều, Tácdăng và Mugambi không thể nhận ra nơi nào là cửa sông Ugam. Tácdăng quyết định lái thuyền đi thẳng vào rẻo đất gần nhất để các chiến hữu của mình ngủ một đêm cho hồi sức.

Chỉ một lúc sau, con thuyền đã chạm cát, lật nghiêng sang bên hông. Hành khách trên thuyền lần lượt nhảy xuống nước, lội vào bờ. Thủy triều đang xuống. Tuy vậy sóng biển vẫn dồn dập không yên. Những con sóng cuồn cuộn đổ vào bờ cát rồi lại đột ngột rút ra khơi. Chỉ một lúc sau con thuyền của Tácdăng đã bị cuốn ra biển xa.

Đêm hôm đó,đàn vượn ôm nhau cho đỡ lạnh để ngủ. Vào lúc gần sáng, Mugambi thức dậy nhóm một đống lửa. Chỉ một lúc sau đàn vượn đã thức giấc lục đục kéo tới ngồi sưởi. Tácdăng và Seta không thấy rét. Cả hai đã quá quen với cái nóng lạnh thất thường của rừng già châu Phi nên lúc này chỉ thấy bụng đói cồn cào. Tácdăng rủ Seta đi săn.

Cả hai đi sâu vào trong rừng. Chỉ một phút sau, Tácdăng đã trông thấy một con trâu rừng đang ngủ gà ngủ gật trong một bụi cây ven suối. Hai chàng thợ săn rón rén tiến lại gần, mỗi người xuất phát từ một hướng, bao vây con mồi. Bởi vì đã cùng đi săn với nhau nhiều lần Tácdăng và Seta rất hiểu nhau, đều biết cần phải làm gì trước mỗi loại mồi săn. Chỉ cần một cái vẫy tay hoặc một cái nháy măt, hai bên đã đủ hiểu nhau.

Hai chàng thợ săn đã áp sát tới bên con trâu. Vừa trông thấy Tácdăng vẫy tay ra hiệu Seta đã chồm lên, phóng hàm răng sắc nhọn vào cổ họng con thú. Con thú rống lên một tiếng đau đớn rồi ngã chổng bốn vó lên trời. Ngay lúc đó, Tácdăng chạy vụt tới với con dao nhọn trong tay. Chàng tóm chặt lấy đám lông bờm, vung dao đâm. Seta vẫn bám chặt cổ trâu. Hàm răng chắc khỏe của Seta mỗi lúc một ngập sâu vào cổ họng con trâu. Bị mất máu, nổi khùng, con trâu lồng lên như hóa điên, kéo lê hai chàng thợ săn đi hàng chục mét. Nhưng sự điên khùng đó chỉ là cố gắng cuối cùng của một sự sống. Một vài giây sau, con trâu rống lên một tiếng yếu ớt rồi ngã vật ra mặt đất, lên cơn co giật. Không cần phải đợi cho con mồi chết hẳn Tácdăng và Seta moi thịt ăn luôn.

Sau bữa ăn sáng no nê, cả hai nằm lăn trên bãi cỏ, ngáp dài. Seta ngoan ngoãn nghiêng mình cho Tácdăng gối đầu vào cái hông mềm ấm như nhung của nó.

Mặt trời lên cao, Tácdăng đánh thức Seta dậy chén bữa nữa. Ăn xong, Tácdăng và Seta quay về bờ biển dẫn bạn bè tới ăn thịt trâu. Thật ra đàn vượn không thích ăn thịt trâu,nhưng vì đói quá, chúng vẫn chén một cách ngon lành. Sau bữa ăn lót dạ, đàn vượn lại tản ra bãi cỏ, nằm ngủ tiếp.

Tácdăng cùng Mugambi lên đường đi tìm con sông Ugam. Chỉ đi vài dặm rừng họ đã bắt gặp một dòng sông rất rộng. Ngắm nghía, quan sát một lúc, Mugambi đã nhận ra đó chính là con sông mà chàng ta đã đi qua để thông ra cửa biển. Tácdăng vội kéo Mugambi đi xuôi theo dòng nước. Hóa ra dòng sông này đổ ra vịnh, cách nơi con thuyền cập bến chiều qua không đầy một dặm. Trong lòng Tácdăng bừng lên một hy vọng lớn. Chàng có linh cảm rằng đi dọc bờ sông này chàng có thể gặp những làng thổ dân Châu Phi. Nếu gặp họ có thể biết đôi điều về Rôcốp và biết đâu có thể dò ra tung tích đứa con bé bỏng của chàng. Chẳng hiểu sao chàng không bao giờ nghĩ rằng Rô cốp có thể giết chết đứa bé.

Tácdăng lại cùng Mugambi đi tìm con thuyền bị sóng cuốn chiều hôm trước. Tìm được thuyền, cả hai cầm chèo bơi dọc bờ sông. Chuyến bơi sông này khá vất vả vì khúc sông này có nhiều vùng nước xoáy và rất nhiều ghềnh thác. Mãi tới chập choạng tối hai người mới bơi ra được cửa sông. Cột chặt con thuyền vào một gốc cây to, hai người đi vào rừng. Chỉ lát sau họ đã gặp đàn vượn của mình đang lang thang hái quả. Vừa trông thấy Tácdăng đàn vượn đã thông báo ngay là Sêta không thấy quay trở lại. Hơn một ngày rồi Sêta gần như đã mất tích. Sau một đêm chờ đợi, không thấy về nóTácdăng đoán là Sêta đã lên đường chỉ vì khao khát tình yêu. Từ bao lâu nay Sêta chưa hề gặp một người bạn nào đồng loại với mình.

Sáng sớm hôm sau Tácdăng dẫn cả đoàn đi dọc bờ sông,vừa đi vừa cất tiếng gọi vang rừng. Gọi được một lúc, trong rừng thẳm bắt đầu vang lên tiếng đáp nghe rất xa xôi. Vài phút sau, Sêta xuất hiện,chạy thẳng đến chỗ Tácdăng. Chạy tới nơi, Sêta gầm gừ làm nũng, dụi đầu vào chân Tácdăng.

Cả đoàn lại lục tục lên thuyền. Có hai thủy thủ trong bộ lạc của Acut đào ngũ. Mặc dù thủ lĩnh Acut và Tácdăng đi gọi suốt một tiếng đồng hồ, hai chàng vượn đực đó vẫn không hề hé răng lên tiếng đáp. Rõ ràng là hai chàng vượn đực này cố tình bỏ trốn. Ngay từ đầu cuộc hành trình rời hoang đảo, chúng đã tỏ ra nhát nước. Trận say sóng vừa qua đã làm chúng mất hết can đảm. Tácdăng quyết định không tìm chúng nữa. Chàng gọi cả đàn vượn quay lại con thuyền.

Thuyền đi được một ngày, Tácdăng ra lệnh dừng lại lên bờ tìm kiếm thức ăn. Mãi mê săn bắn, họ không biết có một người thổ dân gầy nhom đang quan sát họ qua kẽ lá. Vừa trông thấy đoàn quân của Tácdăng, người thổ dân đã nhanh chân biến mất trong rừng tối. Những cái mà anh ta trông thấy thật kỳ quặc và đáng sợ. Anh ta phóng mình qua từng bụi cây, nhanh như con nai bị săn đuổi. Làng quê của anh chỉ cách chỗ Tácdăng săn bắn không đầy ba dặm.

- Có một người đàn ông da trắng nữa đang đến đây – Người thổ dân về tới làng, kêu ầm lên,báo tin cho thủ lĩnh – Hắn ta kéo theo một đội lính đen ngòm. Bọn chúng còn có một chiếc thuyền độc mộc rất to. Có thể chúng lại giết người và cướp bóc giống như gã râu đen lần trước.

Thủ lĩnh Kaviri đứng bật dậy. Ấn tượng về cuộc tiếp xúc với những người da trắng lần trước vẫn còn hiện rõ trong trí nhớ của thủ lĩnh. Từ ngày đó đến giờ, cứ nhắc đến người da trắng là trái tim Kaviri lại đau nhói lên vì thất vọng và căm thù. Kaviri ra lệnh nổi trống khắp làng. Tiếng trống trận giục giã những người đi săn ở rừng sâu và nông dân từ các cánh đồng nhanh chóng chạy về làng. Kaviri quyết định thả xuống sông bảy chiếc thuyền độc mộc chứa đầy binh sĩ. Trên đầu các chiến binh tua tủa những mũi lao dài. Kaviri ra lệnh ngừng tay trống. Vốn là một chiến binh dạn dày kinh nghiệm trận mạc, ông không muốn gây tiếng động làm kẻ thù chú ý. Ông nghĩ rằng cần phải tấn công ngay con thuyền của người da trắng, trước khi mũi súng của người da trắng kịp khai hỏa. Thuyền của ông dẫn đầu đội thuyền chiến. Thuyền vừa bơi qua khúc ngoặt của dòng sông, các chiến binh trên thuyền đã trông thấy chiếc thuyền của “kẻ xâm lược”.

Hai con thuyền lúc này đã tiến đến gần nhau. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua,Kaviri đã trông thấy mặt của kẻ thù da trắng. Các chiến binh da đen đứng cả dậy, hét lên như những người mất trí,tay quơ quơ ngọn lao về phía kẻ thù. Nhưng vừa trông thấy rõ mặt binh lính của gã đàn ông da trắng đầu thuyền, các chiến binh của Kaviri đã muốn vứt hết giáo mác mà nhảy xuống sông bỏ trốn.

Mọi sự dường như đã muộn. Thuyền của Tácdăng vừa chạm vào thuyền của Kaviri, đàn vượn của Acút đã nhảy bổ sang thuyền để cướp vũ khí của các chiến binh da đen. Trong tình thế cùng quẫn, các chiến binh da đen không còn cách nào khác hơn là đành phải cố gắng chống chọi. Theo dòng nước xiết, các chiến thuyền khác của Kaviri cũng trôi tới vùng thủy chiến. Trông thấy cảnh tượng náo loạn trên sông nước, các chiến binh đều kinh ngạc như chẳng thể tin được mắt mình nữa. Trước đó họ vẫn nghĩ rằng kẻ thù của họ là những người da trắng ăn mặc bảnh bao kèm theo những nô lệ da đen làm công việc khuân vác. Vì hình dung như vậy họ mới bao vây chiến thuyền của Tácdăng. Tới khi nhận ra trên thuyền đối thủ không có mấy mặt người mà toàn là mặt quỷ, họ định bỏ chạy nhưng không kịp nữa. Do sức đẩy của dòng nước , thuyền của hai bên va vào nhau. Tácdăng phất tay ra lệnh cho Acut và Sêta. Những người da đen chưa kịp nhảy xuống nước, một con báo khổng lồ và một con đười ươi vạm vỡ đã nhảy vọt vào thuyền. Con thuyền chao đảo, muốn lật úp xuống vì những cú nhảy nhậm lẹ của hai con mãnh thú. Hàm răng nhọn của Sêta ròng ròng máu tươi. Vượn Acut thì vui vẻ bốc từng đối thủ ném xuống lòng sông.

Thủ lĩnh Kaviri như đang sống trong cơn ác mộng. Ông bất lực tới mức không còn biết chỉ huy thế nào nữa. Mọi mệnh lệnh lúc này đều vô nghĩa. Một lúc sau, trông thấy màu lông chim sặc sỡ của ông, gã khổng lồ da trắng đã nhảy sang cướp chiếc lao trong tay ông. Hắn ta cướp chiếc lao như cướp một thứ đồ chơi trận giả của lũ trẻ. Không còn vũ khí nhưng ông vẫn chiến đấu kiên cường. Chả lẽ ông lại bán rẻ tính mạng mình đến thế! Chả lẽ một thủ lĩnh đáng kính như ông lại hạ mình, cúi đầu trước mặt kẻ thù một cách nhục nhã? Gã khổng lồ da trắng đánh nhau với ông bằng tay không. Con thuyền chòng chành, va đập vào ghềnh đá. Nhưng rồi Kaviri đuối dần. Mọi cố gắng của ông đều trở nên vô ích trước sức mạnh rừng rú của thằng quỷ da trắng. Thằng quỷ ấy đã chộp được cổ họng ông, dí đầu ông xuống đáy thuyền. Ông thấy trời đất quay cuồng, ngực đau tới mước không thở được nữa. Một làn sương đục loang dần trong mắt, một lúc sau ông đã hoàn toàn mê man, bất tỉnh…

Tới khi mở mắt tỉnh dậy, Kaviri thấy mình đang nằm sấp trên đáy thuyền độc mộc của mình. Bên cạnh ông, một con báo hoa to đùng đang ngồi canh chừng. Tia mắt của con báo dọi thẳng vào ông, không bỏ sót một cử động nhỏ của ông. Ông khẽ rùng mình nhắm chặt mắt. Một lát sau ông lại mở mắt, chờ đợi con báo xông vào xé ông ra thành trăm mảnh. Ông cầu mong con báo giúp ông kết thúc nỗi đau đớn, nhục nhã mà ông đang chịu đựng. Nhưng rồi mãi không thấy chuyện gì xảy ra. Bên con báo, ông trông thấy gã đàn ông da trắng đang quỳ xuống, mải miết chèo. Ông còn trông thấy hai bên mép thuyền có rất nhiều chiến binh của ông. Điều đáng buồn là trong tay họ không phải là ngọn giáo mà là chiếc bơi chèo. Ngồi sát sau lưng họ là một lũ đười ươi lông lá lồm xồm

Vừa phát hiện ra Kaviri đã tỉnh dậy, Tácdăng lên tiếng hỏi:

- Người làng ông nói rằng ông là thủ lĩnh của họ. Ông là Kaviri? Đúng không?

- Đúng vậy! – Kaviri gật đầu và ngạc nhiên không hiểu vì sao gã đàn ông da trắng này nói sõi đến thế.

- Tại sao ông lại tấn công chúng tôi? Chúng tôi đến đây như những người lương thiện,vì mục đích hòa bình cơ mà - Tácdăng hỏi tiếp.

- Có một người da trắng đến đây cũng nói như ông,cũng chỉ tay và ngực và nói rằng:”Đến vì tình bạn và mục đích hòa bình” – Kaviri trả lời – Chúng tôi đã đón tiếp và tặng cho hắn rất nhiều bột ngô, sữa bò, bạc trắng. Vậy mà ngay sau đó hắn đã bắn vào chúng tôi. Hắn giết khá nhiều người của chúng tôi. Trước khi bỏ đi, hắn đã cướp của chúng tôi một đàn gia súc, một lũ thanh niên và rất nhiều con gái.

- Tôi không như người đàn ông đó – Tácdăng nói. Tôi không muốn xúc phạm đến ai nếu như không bị xúc phạm. Hãy nói cho tôi biết, mặt mũi người đàn ông da trắng đó thế nào? Tôi đang đi tìm kẻ đã xúc phạm tôi. Biết đâu kẻ tôi cần tìm chính là người đàn ông da trắng đó.

- Đó là người đàn ông khỏe mạnh nhưng mặt mũi trông rất nham hiểm và có bộ râu đen xồm xoàm.

- Hắn có mang theo đứa trẻ da trắng nào không?

Tácdăng nôn nóng hỏi. Một câu hỏi khiến trái tim chàng đau thắt lại.

- Không thấy – Kaviri trả lời – Hắn không đem theo đứa trẻ nào. Nhưng có một tốp người khác mang theo một đứa trẻ.

- Có cả tốp khác? – Tácdăng kêu lên – Những người đó ra sao?

- Đó là những người mà hắn truy bắt. Họ đi ngược dòng sông trước hắn ba ngày đường. Tôi nghĩ rằng họ muốn chạy trốn khỏi hắn.

Một người đàn ông da trắng, một người đàn bà và một đứa trẻ? Tácdăng bối rối. Đứa trẻ đó có thể là thằng Giếch bé bỏng của chàng. Nhưng còn người đàn ông và người đàn bà đó thì… là ai? Có thể đó là một trong số người đi cùng Rôcốp, nhưng đã chống lại hắn, đã cướp của hắn đứa bé. Nếu đúng như thế thì chắc chắn là họ muốn trở về với xã hội văn minh. Họ giữ đứa trẻ trong tay là vì muốn một khoản tiền chuộc lại, hoặc là chỉ muốn giữ như một con tin. Rôcốp có thể đã dồn họ vào sâu trong lục địa hoặc là đã bắt được họ. Và biết đâu họ đã lọt vào tay những kẻ ăn thịt người!

Trong khi Tácdăng trò chuyện với Kaviri, con thuyền đã ngược dòng nước trở về đến khu làng. Cùng trở về làng còn có ba chiếc thuyền độc mộc nữa. Cánh chiến binh thất trận của Kaviri ngồi trên ba chiếc thuyền cứ nhìn như dán mắt vào các vị khách lạ. Mặc dù trong trận thủy chiến vừa qua có ba con vượn bị chết, nhưng trong lòng thuyền vẫn còn tám con vượn đực rất to khỏe, cộng thêm báo Seta và chàng trai thủ lĩnh Mugambi. Vì chưa bao giờ có bạn đồng hành là những nhân vật kỳ quái như thế, nên các chiến binh da đen không khỏi lo lắng. Tácdăng, Mugambi và cả vượn Acut đều phải canh chừng đàn thú, không dám để chúng ngồi gần những người da đen. Câu chuyện đổ máu trên sông vừa qua vẫn chưa làm đàn thú nguôi giận. Thậm chí sự hoảng hốt lo sợ của những người da đen cũng có thể làm cho Sêta và cả đàn vượn nổi nóng.

Tácdăng chỉ lưu lại trong làng của Kaviri vài ngày cho đội quân của mình hồi sức. Sau đó chàng yêu cầu Kaviri cung cấp cho mình mấy người chèo thuyền. Vị thủ lĩnh vui vẻ nhận lời ngay. Trong thâm tâm, ông chỉ muốn đội quân của Tácdăng cuốn xéo khỏi làng sớm ngày nào tốt ngày nấy. Nhưng chỉ một lúc sau ông mới nhận ra rằng, hứa thì rất dễ, còn chuyện thực hiện lời hứa là điều nan giải. Các chiến binh của ông vừa nghe phong phanh tới chuyện phải cầm chèo chở đội quân Tácdăng đã lặng lẽ chạy tuốt vào rừng. Kaviri sục sạo tìm kiếm nhưng không lo liệu đủ số người mà Tácdăng yêu cầu. Chỉ vài phút ngôi làng của ông còn nhí nhéo tiếng đàn bà, con trẻ, tuyệt không thấy một gã đàn ông nào. Khi biết chuyện, Tácdăng không nhịn được cười.

- Hóa ra là họ không cảm thấy vinh dự khi hộ tống chúng tôi! – Tácdăng cười dí dỏm – Nhưng Kaviri,ông cứ yên tâm! Rồi ông sẽ thấy binh sĩ của ông phải ra trình diện ngay tức khắc.

Nói xong, Tácdăng đứng dậy. Chàng cử Mugambi ở lại với Kaviri trong làng rồi quay sang thì thầm với đàn thú của mình. Một lát sau, Tácdăng đi vào rừng sâu. Nối sau gót chàng là báo Sêta và tám con vượn đực. Đội quân của Tácdăng vừa khuất sau ngôi làng từ rừng sâu đã vang lên tiếng kêu thét rùng rợn. Mugambi và Kaviri ngồi trong bản doanh nghiêng tai nghe ngóng, không hiểu có chuyện gì xảy ra. Chỉ một lát sau, Mugambi đã nhận ra tiếng thét đó là tiếng thét của ai.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.