Rẽ Ngang Gió Tuyết - Khí Ngô Câu

Chương 134




Hai người chỉnh lý đầu tóc, đổi sang quan phục nghiêm chỉnh mới vào cung.

Đến nay, Tiêu Vương, Tạ Tri Quân, Tạ Tri Chương đã dùng mạng đền tội, Thái sư Từ Thủ Chước uống thuốc độc tự vẫn ở dốc Tà Dương, những quan viên cùng phe với bọn họ đều đã bị Hình bộ bắt giữ, phản quân cũng đã tan tác.

Bùi Trường Hoài và Tạ Tùng Tuyển lập công lớn nhất, Sùng Thiệu Đế quyết muốn phong thưởng, người hỏi Bùi Trường Hoài trước: “Chính Tắc Hầu, con muốn gì cứ nói.”

Bùi Trường Hoài đắn đo một lát mới vén bào quỳ xuống: “Thần chịu ơn của thiên tử, chỉ làm việc trong phận sự, thần chỉ có một nguyện vọng duy nhất, muốn xin Hoàng thượng…”

Sùng Thiệu Đế dường như đã biết y muốn nói gì, liền ngắt lời: “Trẫm muốn thưởng cho con, nếu con muốn cầu tình miễn tội cho Từ gia thì thôi. Chính Tắc Hầu, con là thống soái Vũ Lăng quân, nên nhớ rằng thân là người đứng đầu quân đội, nếu không thưởng phạt rõ ràng, công tư phân minh thì sẽ gây ra hậu quả gì? Huống hồ trẫm còn là vua một nước.”

Bùi Trường Hoài bình tĩnh dập đầu: “Thần không dám cầu xin cho Từ gia, nhưng Cẩm Lân cũng lớn lên dưới ánh mắt của người, tuy rằng ngày thường y ham chơi nhưng làm người chính trực, tuyệt không có lòng mưu phản. Lần thần đi xứ ở Nhu Thố, gặp mười hai kỵ binh Ưng Đàm ám sát giữa đường, tính mạng nguy nan, nếu không phải Cẩm Lân biết được hành động của Chử Tô Lặc, nhờ Triệu Đô thống đến tiếp viện, e rằng thần không còn mạng trở về. Xin Hoàng thượng niệm tình y còn trẻ chưa hiểu chuyện, tha cho y một mạng.”

“Còn trẻ chưa hiểu chuyện?” Sùng Thiệu Đế chẳng có biểu cảm gì hỏi ngược lại: “Con thật sự tin rằng nó hoàn toàn không biết chuyện này?”

Bùi Trường Hoài không do dự đáp: “Thần tin, hơn nữa dám lấy đầu mình ra đảm bảo.”

Không khí nặng nề, Tạ Tùng Tuyển đứng bên cạnh cũng ôm quyền hành lễ, nói thêm vào: “Thần cũng có thể làm chứng, lời Chính Tắc Hầu chẳng có lời nào trái sự thật.”

Kỳ quái ở chỗ, Sùng Thiệu Đế phái Trịnh Quan đến phủ Tướng quân chiêu Tạ Tùng Tuyển vào cung, nhưng từ khi hắn và Bùi Trường Hoài vào Minh Huy điện lại chẳng nhìn đến hắn lần nào.

Đến khi hắn mở miệng, ánh mắt Sùng Thiệu Đế mới nhìn sang, cứ trân trân nhìn một hồi lâu.

Một lát sau, Sùng Thiệu Đế mới trở lại bình thường, trầm giọng nói với Bùi Trường Hoài: “Giờ đầu của Chính Tắc Hầu đáng giá, trẫm còn có thể chém con không? Được rồi, chuyện Từ gia trẫm tự có suy tính.”

Bùi Trường Hoài nghe ngữ khí của Sùng Thiệu Đế nhẹ nhàng không ít, lòng biết chuyện này đã xong: “Thần tạ ơn Hoàng thượng.”

“Con lui trước đi.” Sùng Thiệu Đế nói.

Tạ Tùng Tuyển và Bùi Trường Hoài cùng bình thân, trừ chuyện công vụ ra hắn cũng không còn gì để nói, đang định cùng Bùi Trường Hoài rời khỏi Minh Huy điện.

“Triệu ái khanh, con ở lại.” Tạ Tùng Tuyển đứng hình.

Bùi Trường Hoài nhìn hắn cười cười, khom lưng lui xuống, một lúc sau, trong điện chỉ còn lại Sùng Thiệu Đế và Tạ Tùng Tuyển.

Hai người trầm mặc hồi lâu.

Sùng Thiệu Đế đang đợi hắn chủ động nói, mà Tạ Tùng Tuyển từ đầu đến cuối vẫn hành lễ ở đó, sắc mặt bình thản, một chữ cũng không hé răng.

Cuối cùng, Sùng Thiệu Đế mở lời: “Ái khanh không có gì muốn nói với trẫm hay sao?”

Tạ Tùng Tuyển đáp: “Không có.”

Sùng Thiệu Đế nhìn hắn, len len thở dài mấy hơi, mới nói: “Vị tráng sĩ họ Lục kia nói với trẫm, bọn họ đồng ý liều mạng vào cung cứu giá là vì nhiều năm trước chịu ơn cứu mạng của Tạ Thiếu gia, hôm nay Tạ Thiếu gia hồi kinh rồi, đã đến lúc bọn họ đền ơn.”

Sùng Thiệu Đế chăm chú nhìn Tạ Tùng Tuyển, bàn tay trên long ỷ nắm chặt: “Ông ta nói, Tùng Tuyển của trẫm về kinh rồi…”

Cho dù Sùng Thiệu Đế đã quen giữ nét mặt bình thản như không, nhưng câu nói này lại không thể che giấu cảm xúc mãnh liệt.

Tạ Tùng Tuyển vẫn giả vờ không biết: “Thần Triệu Quân không dám nhận.”

Từ lúc nghe thấy cái tên Tạ Tùng Tuyển từ miệng người khác, Sùng Thiệu Đế kinh ngạc, kích động, rồi chỉ còn lại vui mừng khi tìm lại được thứ đã mất.

Sau khi đăng cơ đến nay, lần đầu tiên Sùng Thiệu Đế lại thấp thỏm chờ mong như thế, đứa trẻ mà người vẫn luôn ngóng trông nay đã về kinh, người muốn nhìn xem, muốn xác nhận.

Nhưng nghe hắn bình tĩnh tự xưng “Triệu Quân”, giống như một thau nước lạnh gột rửa niềm vui và kỳ vọng của Sùng Thiệu Đế.

Sùng Thiệu Đế nhỏ giọng nói: “Ngô nhi, con không chịu nhận trẫm rồi sao?”

Một lúc sau, Tạ Tùng Tuyển mới đáp: “Lúc trước Hoàng thượng chưa bao giờ gọi con như thế, một lần cũng không.”

Sùng Thiệu Đế bất giác thẳng lưng, rất lâu mới thấp giọng nói: “Con rất giống nương của con, nhìn thấy con làm ta nhớ tới Nguyên Nương.”

“Nhớ tới điều gì của bà ấy? Nhớ tới những lời nguyền rủa của bà ấy, nguyền đứa con của bà ấy và người sau này sẽ giết cha đoạt ngôi sao?”

Đáy mắt Tạ Tùng Tuyển sâu thẳm, trong bình tĩnh cố giấu từng gợn sóng lăn tăn.

Sùng Thiệu Đế không đáp, người không thể không thừa nhận, những lời nói lúc sinh tiền của Mạnh Nguyên Nương là ám ảnh cả đời của người, bởi vì thế mà người vẫn luôn cố ý xa cách đứa trẻ này.

Nhưng ngày binh biến hôm đó, đứa trẻ đó nay đã lớn khôn, tựa như võ thần, một mình đứng chắn trước mặt Sùng Thiệu Đế, đối mặt với vô số đao kiếm lạnh lùng cũng chưa từng chùn bước.

Sùng Thiệu Đế nhớ lại tình cảnh lúc đó, cảm xúc rối bời, người không ngờ, kẻ đầu tiên không tiếc mạng dám đứng ra cứu giá lại là đứa con trai mà người kiên dè cả đời.

Sùng Thiệu Đế trước nay chưa từng cúi đầu trước ai, nhưng lúc này lại khẩn cầu nói với Tạ Tùng Tuyển: “Mẫn Lang, tất cả đều đã qua rồi, con trở lại bên trẫm nhé.”

Ánh mắt người vẫn âm trầm không thể mạo phạm, giọng nói nhỏ nhẹ chứa đầy quyền uy: “Sau khi trẫm trăm tuổi, giang sơn Đại Lương này sẽ là của con.”

Tạ Tùng Tuyển nghe xong, ngẩng đầu nhìn Sùng Thiệu Đế, lại nhìn long ỷ, còn có long bào chói mắt.

Vì tranh giành ngôi vàng này, không biết bao nhiêu người dùng hết tâm sức, trăm phương ngàn kế, ai ngờ sau khi sóng gió đã định, Hoàng vị này lại dễ dàng rơi trước mắt hắn.

“Sở hữu thiên hạ sao, cám dỗ lớn đấy.” Tạ Tùng Tuyển mỉm cười: “Không dám giấu Hoàng thượng, lúc trước con cũng rất muốn ngồi trên

cái ghế vàng đó lắm.”

Đây là lời đại bất kính, nếu người khác nói, Sùng Thiệu Đế đã nổi trận lôi đình, nhưng đối mặt với Tạ Tùng Tuyển, đáy mắt người lại lộ vẻ mừng vui.

Tạ Tùng Tuyển lại nói tiếp: “Lúc đó con vừa nghe lén được thân thế của mình từ Thái hậu và Tư thiên giám, con mới biết được, con chẳng phải con trai công thần gì hết mà chỉ là một đứa con riêng không được nhìn thấy ánh mặt trời, còn bị mẹ ruột nguyền rủa sau này sẽ giết cha đoạt ngôi, khi đó, con thật sự rất muốn ngồi trên vị trí này.”

Cho dù Sùng Thiệu Đế đã đoán được đứa trẻ này đã đoán được thân phận của mình từ sớm, nhưng lại không nghĩ đến lại sớm như thế, ngay cả lời sấm của Mạnh Nguyên Nương lúc còn sống cũng đã biết rõ.

Lúc đó, tuổi hắn còn nhỏ, trong mắt Sùng Thiệu Đế, hắn vẫn còn là một đứa trẻ ngây thơ, chẳng hay biết nhưng oan nghiệt thâm trầm về thân phận của mình mà sống thanh thản vui vẻ, quang minh lỗi lạc.

Sùng Thiệu Đế e dè hắn, nhưng không thể giấu được sự kiêu ngạo và yêu thương dành cho đứa con này.

Nhưng nếu hắn đã sớm biết thân thế của mình, làm sao có thể thiên chân vô tà như Sùng Thiệu Đế nghĩ?

Người bất giác chau mày: “Con đã biết từ sớm?”

“Đúng vậy, từ lâu lắm rồi.” Tạ Tùng Tuyển đáp: “Lúc đó con vẫn luôn nghĩ, có khi lời nương nói là thật, con sinh ra đã chú định phải giết cha đoạt ngôi, vì lòng con chỉ toàn oán hận.”

Thân thế mà hắn luôn lấy làm kiêu ngạo là giả, người tài trí ưu tú, góp sức cùng Hoàng thất bình định thiên hạ, Văn Chính Công Tống Quan Triều không phải là cha của hắn.

Lời đồn đãi Mạnh Nguyên Nương lúc còn sống yêu thương hắn vô vàn cũng là giả, mẹ ruột của hắn từng hận không thể tự tay gi/ết ch/ết nghiệt chủng dơ bẩn này từ lúc còn là phôi thai.

Từ ái Thái hậu dành cho hắn cũng là giả, bởi vì Tạ gia nợ hắn, không có cách nào cho hắn một thân phận quang minh chính đại nên mới đối xử tốt với hắn đã bản thân có thể thanh thản một chút.

Tạ Tùng Tuyển thấy mình như bị lừa gạt, cảm nhận được thứ gì gọi là bất công, bởi vì thế nên không thể không sinh ra oán hận.

Lúc đó hắn vẫn còn mang xung động thiếu niên, oán hận dễ dàng khiến hắn lạc lối.

Nhìn thấy Sùng Thiệu Đế bế những hoàng tử nhỏ chơi đùa trong ngự hoa viên, cười cười nói nói, mà hắn chỉ có thể đứng từ xa trông ngóng, ngay cả gọi một tiếng phụ hoàng cũng không xứng.

Tạ Tùng Tuyển sẽ nghĩ, nếu những đứa trẻ này đều ch/ết đi, có lẽ Sùng Thiệu Đế sẽ nhận hắn là đứa con trai duy nhất.

Hoặc là, đến khi hắn ngồi lên hoàng vị cao quý đó, mới có thể chứng minh mình chính là huyết mạch chân chính của Hoàng thất, Sùng Thiệu Đế sẽ hối hận mình chưa từng yêu thương đứa con này.

Cho đến một lần, hắn nhìn thấy chim yến đi đi về về mớm mồi cho chim non trong tổ, ríu rít không ngừng, hắn bực dọc, đố kỵ trong lòng không thể áp chế.

Tạ Tùng Tuyển nghĩ, tại sao thế giới này chỉ có mình ta cô đơn một cõi, nhưng ngay cả súc sinh lông lá còn có người thân, còn có thể sống vui vẻ hạnh phúc như thế?

Hắn sinh ra ác niệm, lấy một cây sào trúc tàn nhẫn đập nát tổ chim.

Chim non trong tổ té xuống đất bỏ mạng, chỉ còn lại một con đáng thương gào thét.

Hắn nâng con chim trong tay, nó vẫn chưa mọc lông tơ, lớp da mỏng gần như trong suốt, có thể nhìn thấy rõ lục phủ ngũ tạng.

Sinh mạng nhỏ nhoi như thế, vừa mong manh vừa xấu xí, làm hắn ghen ghét.

Hắn tàn nhẫn nghĩ rằng, chỉ cần nhẹ nhàng khép tay là có thể bóp ch/ết một sự sống.

Nhưng hắn chưa kịp ra tay đã nghe thấy một giọng nói rất nhỏ sau lưng: “Đều ch/ết hết rồi sao?”

Tạ Tùng Tuyển quay đầu lại, nhìn thấy một tiểu công tử mặc áo lụa thêu hạc, trên cổ đeo một cái kiềng bằng vàng, toàn thân kiều quý, khuôn mặt trắng như sứ, tròn trịa đáng yêu, nhưng đôi mắt lại đỏ hồng.

Đứa trẻ đó bước tới, nửa quỳ trên đất, ôm cái tổ chim đã nát lên nhìn những chú chim đáng thương đã lìa đời, liền òa khóc: “Sao lại như thế?”

Tạ Tùng Tuyển thấy y đau lòng như thế cũng không biết làm sao, đành giơ tay đưa chú chim non lên trước mặt y: “Vẫn còn một con đây.”

Hai mắt tiểu công tử sáng lên. Tạ Tùng Tuyển thấy y quan tâm chú chim nhỏ này như thế, không khỏi có chút áy náy, nhưng phần nhiều vẫn là oán giận.

Hắn cố ý nói: “Ta chuẩn bị bóp ch/ết nó.”

Tiểu công tử chau mày, nước mắt lưng tròng hỏi: “Tại sao?”

Tạ Tùng Tuyển đáp; “Người nhà của nó đều ch/ết rồi, chỉ còn lại một mình nó thì đáng thương lắm, nay mai là sẽ bị mèo hoang tha đi, hoặc là bị con chuột nào đó ăn thịt, dù sao cũng phải ch/ết, chi bằng ta tiễn nó đi sớm một chút.”

“Không đâu.” Tiểu công tử lắc đầu: “Nếu ngươi chăm sóc nó cẩn thận thì nó sẽ sống.”

Tạ Tùng Tuyển không kiên nhẫn hỏi: “Chẳng ai cần nó hết, ta chăm sóc nó làm gì?”

Tiểu công tử nghĩ ngợi một lát mới e dè hỏi: “Nếu ngươi đồng ý thì có thể giao nó cho ta không?”

Tạ Tùng Tuyển lại hỏi: “Giao cho ngươi làm gì?”

“Trong phủ nhà ta có hạ nhân từng nuôi bồ câu đưa thư trong quân doanh, ta có thể đi hỏi bọn họ, ngươi cứ yên tâm, ta sẽ chăm sóc cho nó đàng hoàng.”

Tạ Tùng Tuyển nửa tin nửa ngờ, nhưng nhìn nước mắt trên mặt y còn chưa kịp khô, chẳng biết vì sao mà không thể ra tay giết con chim này trước mặt y.

Tạ Tùng Tuyển dứt khoát nhét con chim vào tay y, giống như ném một hòn thép nóng: “Thế thì ngươi cứ giữ lấy!”

Tiểu công tử cẩn thận ôm con chim trong lòng bàn tay, chắc là vì sợ nó bị lạnh bị đói, hoặc sợ Tạ Tùng Tuyển đổi ý, liền xoay người chạy mất.

Tạ Tùng Tuyển nhìn y chạy đi, mới nhớ ra còn một chuyện, gọi với theo: “Nè, tên ngươi là gì thế? Nếu con chim này sống sót thì phải đem đến cho ta coi thử”

Tiểu công tử quay đầu lại, ngoan ngoãn lễ phép cúi người hành lễ: “Ta tên là Bùi Dục.”

Tạ Tùng Tuyển nhìn nụ cười xán lạn trên mặt Bùi Dục, chỉ thấy ánh nắng ngày xuân hôm nay có hơi chói mắt.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.