Hôm sau Tuệ An dậy rất trễ, mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, nàng ngủ một đêm không mộng mị, lúc này tinh thần sảng khoái, thật là lâu rồi chưa thấy nhẹ nhàng khoan khoái như vậy. Đông Nhi, Hạ Nhi hầu hạ nàng chỉnh trang y phục, Tuệ An ngồi trước bàn trang điểm tùy cho Phương mama tự mình búi cho nàng một thập tự kế*.
Phương mama một bên chải mái tóc xõa dài của Tuệ An, một bên cười nói: “Vừa rồi có người của Quan phủ đến đây đưa thiệp cho cô nương, là các vị tiểu thư Quan gia mời cô nương buổi chiều đến Quan phủ chơi.” Ta nghe vậy khuôn mặt đang tươi cười nháy mắt đã xụ xuống, hồi lâu mới ồ một tiếng, tỏ vẻ đã nghe thấy.
Dùng xong đồ ăn sáng, bên ngoài trời trong vắt một màu, thêm hôm qua vừa trừng trị được mẹ con Đỗ Mỹ Kha, tâm tình Tuệ An cũng phấn chấn lên, cười đến mặt mày cong cong, nói với Phương mama: “Đi thôi, thừa dịp hôm nay ta vui vẻ, chúng ta đi dạo trong vườn một vòng nào, hôm kia không phải Đông Nhi nói hồng mai ở Lưu viên nở rất đẹp sao, ta cũng muốn nhìn thử xem.”
“Cô nương muốn đi ngắm mai ư? Hay là để bọn nô tỳ mang theo cái kéo, tiện thể cắt về một ít hoa mai để cho Chu đại tẩu làm bánh hoa mai cho cô nương đỡ nhạt miệng nhé?” Đông Nhi nghe vậy, vội vàng cười nói.
“Con bé này, không phải là tự muội muốn ăn à? Cô nương ta nào có thích mấy thứ ngọt ngọt dính dính như vậy.” Tuệ An thấy Đông Nhi hai mắt lấp lánh sao lại không biết nàng nghĩ gì, khẽ dí vào trán nàng, lại cười nói: “Được rồi, dù sao ta vốn không phải người yêu hoa tiếc hoa, cùng các muội vặt cành bẻ hoa cũng chẳng sao.”
Mấy nha đầu đều cười, Phương mama cầm chiếc áo khoác đỏ thêu hoa mai trắng khoác cho Tuệ An, các nàng cũng cùng nhau vây quanh Tuệ An chạy ra ngoài. Ai ngờ mới ra khỏi phòng đã gặp Yển Nguyệt từ bên ngoài tiến đến, bẩm: “Cô nương, phu nhân của Quang Lộc tự khanh Thủy đại nhân cùng Thủy Nhị tiểu thư đến, lúc này e là đã qua cửa phủ.”
Quang Lộc tự chuyên môn quản lý tiệc tùng, Thủy đại nhân kia với phủ Phượng Dương hầu tí xíu quan hệ cũng không có, Thủy phu nhân cùng Thủy Nhị tiểu thư tới đây làm gì? Tuệ An sững sờ, mờ mịt nhìn về phía Phương mama, Phương mama cũng không biết phải nói gì, thế nhưng Đông Nhi cùng Hạ Nhi lại khẽ “A” lên một tiếng, Tuệ An đưa ánh mắt dò hỏi nhìn về phía các nàng, Hạ Nhi lúc này mới nói: “Có thể là do chuyện ở Thường Âm lâu hôm đó, lúc ấy đám người kia vừa xông tới, bọn nô tỳ không tìm được cô nương, nô tỳ đoán có khả năng cô nương vẫn ở trong Thường Âm lâu, cho nên cùng với Hạ Nhi chạy vào Thường Âm lâu tìm cô nương, ai ngờ đám tử sĩ kia cũng nhảy được vào Thường Âm lâu. Lúc ấy vì bọn nô tỳ cũng có chút võ nghệ hộ thân, nên thuận tay giúp đỡ được vài vị tiểu thư phu nhân lúc đó, loáng thoáng cũng nhớ có Thủy phu nhân cùng Nhị tiểu thư nhà ấy thì phải.”
Phương mama nghe vậy trừng mắt nhìn mấy người Hạ Nhi một cái, nói: “Yển Nguyệt ra đón Thủy phu nhân cùng Thủy tiểu thư vào Viễn Phương các trước, tiếp đãi cẩn thận. Cô nương mau thay quần áo đi, mấy người các ngươi thật là, chuyện lớn như vậy cũng không nói sớm.”
Bọn Hạ Nhi một mặt vội vàng hầu hạ Tuệ An thay quần áo gặp khách, một mặt vô tội nói: “Mama cũng phải thông cảm cho bọn nô tỳ, hôm đó bọn nô tỳ cũng chỉ thuận tay che chắn cho Thủy phu nhân cùng Thủy tiểu thư một phen mà thôi, vốn là việc nên làm, chẳng đáng để đem ra khoe khoang, sau khi trở về thì ném ngay việc này ra sau đầu, nào có ngờ người ta lại đích thân đến tận nơi tạ ơn.”
“Được rồi, thay đồ cho cô nương nhanh lên, đừng để người ta đợi lâu rồi nói phủ Phượng Dương hầu chúng ta thất lễ với khách, tranh cãi cái gì.”
Mọi người bận rộn một lúc, Tuệ An rửa mặt thay đồ lần nữa, xong xuôi mới đi đến Viễn Phương các.
Viễn Phương các là khu đầu tiên trong Dung Lê viện, là nơi Tuệ An thường xuyên tiếp khách, trong phòng bày một bàn gỗ, vật dùng để trang trí trang nhã quý giá, vừa không khoe mẽ không keo kiệt. Sau khi Thủy phu nhân cùng Thủy Nhị tiểu thư được mời đến Viễn Phương các, bọn nha hoàn đã nhanh nhẹn dâng lên trà bánh, Thủy phu nhân đánh giá cách bài trí trong phòng, mắt thoáng hiện vẻ tán thưởng. Vẫn nghe nói Thẩm lão Hầu gia xuất thân dân dã, lại có lời đồn nói mẹ ruột của Thẩm Nữ hầu là một Hồ cơ, Thẩm gia mặc dù đứng hàng hầu tước, kỳ thật đều là những người hương dã thô tục, nay bà thấy cách bài trí trong phủ thế này, còn cả thái độ của hạ nhân trong phủ, mới cảm thấy lời đồn đại chưa chắc đã tin được.
Thủy phu nhân đang suy nghĩ, đã nghe bên ngoài truyền đến một giọng nữ trong trẻo: “An nương có tội, khiến Thủy phu nhân cùng Nhị tiểu thư phải đợi lâu.” Thủy phu nhân ngẩng đầu thì thấy một thiếu nữ tuổi chừng mười hai mười ba đang từ từ đi đến, thân thể của nàng so với các cô nương cùng tuổi có vẻ cao hơn rất nhiều, dáng cao mà mảnh mai, đi đường không toát ra vẻ yểu điệu thường thấy mà là tràn đầy sức sống.
Nàng mặc áo màu hồng đào, váy đỏ bạc thêu hoa tử đằng, bên hông đeo đai lưng thuần một màu trắng, vải lụa vàng đính một khối ngọc bội Bạch Liên gắn vào đai lưng, lúc đi đường ngọc bội cũng đong đưa, càng lộ vẻ eo thon mảnh khảnh, thân mình dẻo dai, mười phần sống động. Lại thấy nàng có khuôn mặt trái xoan trắng muốt như hoa lê, da thịt mịn màng, trang điểm cũng theo nét khỏe khoắn, trán rộng, lông mi dài, đôi mắt sáng trong suốt, mũi cao môi mọng, khóe môi mang theo nụ cười vui mừng mà chân thành. Mặc dù không có nét đẹp mềm mại như nữ tử bây giờ, dung mạo lại nghiêng về vẻ xinh đẹp quyến rũ, khiến người ta vừa gặp đã ngứa ngáy trong lòng, nhưng bởi vì nàng có phong thái hào phóng lanh lợi, cũng không lộ vẻ lỗ mãng, nên cũng khiến cho người ta vừa gặp đã thấy thân thiết. Hơn nữa cử chỉ của nàng ung dung tao nhã, không có thái độ kiêu căng, so với những cô nương nơi thế gia danh môn hẳn không thua kém bao nhiêu.
“Thẩm tiểu thư chớ khách khí, hôm trước ở Thường Âm lâu nhờ có tỳ nữ quý phủ liều mình che chở, mẹ con chúng ta mới có thể yên bình mà đứng nơi đây, hôm qua đã định mang Khinh Nhi đến quý phủ tạ ơn, chỉ khổ nỗi Khinh Nhi bị kinh hãi quá độ nên không gượng dậy nổi, nên mới chậm trễ thế này. Sáng sớm hôm nay nghe nói Thẩm tiểu thư hôm qua lại bị kinh hãi một trận, ta đây còn chưa kịp chuẩn bị thiếp mời, đã lỗ mãng dẫn Khinh Nhi chạy tới, chắc là gây phiền hà cho quý phủ nhiều lắm? Hôm qua cô nương có bị thương ở đâu không?” Thủy phu nhân vừa nói vừa cùng Thủy Nhị tiểu thư đứng lên, vẻ mặt ân cần hỏi thăm Tuệ An.
Tuệ An vội vàng bước lên phía trước đỡ lấy tay Thủy phu nhân, nói: “Phu nhân là trưởng bối, nếu người không chê, cứ gọi ta một tiếng An nương là được. Phu nhân mau ngồi xuống đi, Khinh Nhi tiểu thư là bạn học ở Quốc Tử Giám với An nương, dù ngày thường không hay qua lại, nhưng cũng có tình bằng hữu, ngày hôm đó lại lâm vào tình cảnh như vậy, mấy nha đầu này của ta việc khác thì không nói làm gì, chỉ biết đôi chút công phu, nếu có ra tay dùng võ trước mặt khách, cũng là muốn khoe khoang này nọ mà thôi, không dám nhận lời cảm tạ của phu nhân. Hôm qua ta chẳng qua chỉ bị trầy da chút xíu, làm phiền phu nhân đã lo lắng, thật khiến An nương xấu hổ.”
Thủy phu nhân thấy Tuệ An tuổi tuy nhỏ, nhưng tác phong ăn nói lại có phần thẳng thắn cởi mở, cũng không khách khí với nàng nữa, cười ngồi xuống ghế, nói: “Vậy ta gọi con là An nương nhé, con cũng đừng một tiếng phu nhân hai tiếng phu nhân nữa, gọi ta một tiếng bá mẫu có phải tốt hơn không? Chắc đây là mấy nha đầu đã ra tay tương trợ các phu nhân hôm đó thì phải. Hôm đó ta không nhìn thấy, không biết là người nào đã đưa tay kéo Khinh Nhi một cái, giúp nó tránh được một đao tặc tử chém tới? Lúc ta đang ngây người còn thấy có một nha đầu áo hồng một cước đạp văng tặc tử, mới cứu lại được cái mạng này của ta, lại không biết là người nào?”
Thủy phu nhân nói xong dùng ánh mắt cảm kích nhìn về phía xuân hạ thu đông vẫn luôn yên lặng đứng sau lưng Tuệ An. Hôm đó xuất môn, các nàng đều tỉ mỉ chỉnh trang một phen, đương nhiên cách ăn mặc không giống nhau, hôm nay là ở trong phủ làm việc, chỉ mặc bộ đồng phục màu hồng cánh sen, mới liếc qua không thể nhận ra.
Vừa rồi Tuệ An đã hỏi kĩ các nàng tình huống hôm đó, lúc này vội cười nói: “Phu nhân nói là Hạ Nhi với Thu Nhi, còn không mau tiến lên hành lễ với Thủy phu nhân cùng Nhị tiểu thư.”
Lúc này Thu Nhi, Hạ Nhi mới tiến lên hành lễ ra mắt, Thủy phu nhân gấp rút đứng lên đỡ hai người dậy, cười kéo tay Thu Nhi, quan sát hai người, nói: “Mắt chọn nha hoàn của An nương thật là khéo, không chỉ tinh thông võ nghệ, mà cũng thật xinh xắn linh hoạt, phủ Phượng Dương hầu đúng là biết dạy dỗ mà.”
Không phải Tuệ An khoe khoang, bốn nha đầu này của nàng, xuân hạ thu đông mỗi người một vẻ. Xuân Nhi tính tình trầm ổn, tướng mạo cực kỳ ngọt ngào, nhìn qua đơn thuần đáng yêu, chẳng khác nào một tiểu muội nhà bên. Hạ Nhi lanh lợi nhất, nói một hiểu mười, ngũ quan cũng tinh xảo vô cùng, rất thích cười, hai lúm đồng tiền luôn ẩn hiện trên mặt. Thu Nhi sắc sảo nhất, khuôn mặt cũng mặn mà đằm thắm, một đôi mắt hoa đào trong suốt lung linh. Đông Nhi tâm tư tinh tế nhất, tướng mạo cũng nghiêng về vẻ thanh lệ, trong bốn nha đầu là bình thường nhất, cũng là người đáng chú ý nhất.
Thấy Thủy phu nhân khen ngợi, Hạ Nhi, Thu Nhi cũng hơi xấu hổ, đỏ mặt nhìn về phía Tuệ An. Tuệ An lại đưa ánh mắt tinh quái nhìn các nàng, cười nói: “Phu nhân chê cười rồi, bốn nha đầu này của ta ngày thường vẫn to gan vô lại, quả thực khó dạy bảo vô cùng, chỉ ra vẻ trước mặt người khác là giỏi thôi.”
Thủy phu nhân thấy Tuệ An khiêm tốn, càng cảm thấy lời đồn bên ngoài vô lý hết sức, ra hiệu cho nha hoàn phía sau đưa cho Thu Nhi cùng Hạ Nhi mỗi người một cái hộp, nói: “Hôm đó thật sự là làm phiền hai người, đây là chút tâm ý của ta, hai người hãy nhận lấy.” Bà thấy họ muốn từ chối, vội nói tiếp: “Hai người là người của phủ Phượng Dương hầu, lại là nha hoàn thiếp thân bên người An nương, ta biết chắc các ngươi cũng chẳng thiếu thốn gì mấy vật thế này, nhưng đây đều là tâm ý của ta, chỉ muốn biểu thị lòng biết ơn, nếu như các ngươi không nhận thì ta đây cũng khó lòng an tâm. Đừng khách sáo, hãy cầm lấy đi.”
Hai người Thu Nhi từ chối không được thì nhìn về phía Tuệ An, Tuệ An cười nói: “Thủy phu nhân xem trọng các muội, vậy thì các muội cứ nhận đi, còn không mau cám ơn Thủy phu nhân.” Hai người nhận hộp, cùng nhau cám ơn. Thủy phu nhân lại để cho Thủy Khinh Nhi thi lễ với hai người, bọn Thu Nhi vội vàng nghiêng người tránh, xấu hổ đỏ bừng cả mặt.
Thủy phu nhân cũng phân phó Thủy Khinh Nhi hành lễ tạ ơn với Tuệ An, Tuệ An đứng dậy nâng nàng dậy, kéo tay nàng ngồi xuống bên cạnh mình. Thủy phu nhân thấy thế cười lên một tiếng, nói: “Đứa bé Khinh Nhi này của ta vốn hay xấu hổ, lại ăn nói vụng về, không được hiểu chuyện như An nương, An nương với Khinh Nhi là cùng tuổi đúng không?”
Tuệ An cười một tiếng, kéo tay Thủy Khinh Nhi, nói: “Ta cầm tinh con dê, sinh vào tháng ba, không biết Thủy Nhị tiểu thư sinh tháng mấy?”
“Ta sinh vào tháng bảy.” Thủy Khinh Nhi nhỏ nhẹ nói, nàng mặc trên người một bộ váy áo thuần một màu trắng có thêu trăm bướm vờn hoa, chải một búi tóc tròn*, trên mỗi búi tóc cài bốn chiếc trâm nhỏ khảm hoa nhỏ màu xanh lam, dáng vẻ thanh lệ thoát tục.
Tuệ An nhìn rất thích, cũng nói luôn: “Vậy thì là muội muội rồi, về sau muội muội nhớ phải năng đến chỗ ta chơi đấy.” Thủy Khinh Nhi tính tình hướng nội, lại xấu hổ, thường ngày ở Quốc Tử Giám ít khi qua lại với người khác. Hôm nay thấy Tuệ An cởi mở hào phóng như thế, đã sớm có lòng muốn kết giao, nghe Tuệ An nói vậy liền vội vàng cười đồng ý, có phần ngượng ngùng gọi một tiếng “Thẩm tỷ tỷ”.
Thủy phu nhân ở bên cạnh nhìn xem cũng nở nụ cười, mấy người rảnh rỗi hàn huyên thêm một lúc, Thủy phu nhân mới dẫn Thủy tiểu thư đứng dậy cáo từ. Tuệ An vừa tiễn hai người ra khỏi Dung Lê viện, đã thấy Băng Nguyệt tới báo có Sử phu nhân và Sử tiểu thư nhà Giám sát Đô Sát viện đến chơi. Vừa rồi Tuệ An đã hỏi qua mấy nha đầu, dĩ nhiên biết là chuyện của Đông Nhi, lại vội vàng cùng Phương mama bận rộn một phen.
Đợi tiễn xong Sử phu nhân và Sử tiểu thư đã tới gần giữa trưa, cũng không đi ngắm mai nữa, Tuệ An sai người bày bàn ăn, nghĩ tới chuyện buổi chiều phải đến Quan phủ bái phỏng lại cảm thấy không vui. Tuệ An vừa nằm nghỉ trưa một lúc, chưa gì lại bị Phương mama lôi ra khỏi cái chăn ấm áp, tất bật chọn lựa quần áo cho nàng để chiều đi Quan phủ, thêm đồ trang sức các kiểu, sau đó Tuệ An liền bị đẩy vào tịnh phòng.
Đông Nhi, Xuân Nhi hầu hạ nàng rửa mặt thay đồ xong, Phương mama đặt Tuệ An ngồi trước bàn trang điểm đích thân dặm phấn cho nàng, đúng lúc Tuệ An cũng có một số việc muốn dặn dò Phương mama, nên cũng tùy bà trang điểm vấn tóc cho mình, nhìn qua gương nói: “Chiều nay vú nuôi cũng phải đến Thu Lan viện dạy cho Nhị cô nương một ít lễ nghi đi, chỉ cần dạy dỗ kĩ càng là được, chuyện khác thì không cần quan tâm.”
Đông Nhi cùng Thu Nhi ở bên cạnh nghe thấy thì giật mình ngạc nhiên, Thu Nhi không nhịn được cất tiếng hỏi: “Cô nương để mama đến Thu Lan viện dạy bảo Nhị cô nương, đây là cơ hội tốt nhường nào, tại sao lại không để cho Phương mama ra sức dày vò nha đầu kia một chút, hừ, nha đầu kia bụng dạ xấu xa, theo nô tỳ thấy phải để mama lấy cớ này chỉnh nàng đến chết còn được nữa là, xem nàng về sau còn dám gây phiền phức cho cô nương nữa không!”
“Thu Nhi! Ngươi nói bậy nói bạ gì đó, dù thế nào Nhị cô nương cũng là chủ tử, ngươi muốn làm thứ nô tài điêu ngoa xảo quyệt sao? Nếu lời ngươi nói để cho người khác nghe được, khiến người ta bắt được nhược điểm, ngươi bị phạt cũng chẳng sao, nhưng nếu liên lụy cô nương cũng bị chê trách theo, xem lúc đó ngươi có gánh nổi tội này không?” Đông Nhi quát to một tiếng, Thu Nhi ủy khuất nhìn về phía Tuệ An, thấy Tuệ An sắc mặt không đổi mới thở phào một hơi, cũng biết lời vừa nói có phần không ổn, chỉ rầu rĩ cúi gằm mặt xuống.
Trong phòng im lặng một hồi lâu, Tuệ An mới nhìn Thu Nhi, cười nói: “Được rồi, còn tủi thân cái gì, làm như cô nương ta mới là người chỉ trích muội vậy. Ý của ta là Phương mama chỉ cần hết sức dạy dỗ Nhị cô nương, nếu như lấy việc này chèn ép Nhị cô nương, một hai lần như thế thì người trong phủ cũng không phải kẻ ngu, hơn nữa vú nuôi còn phải giúp ta quản lý sự vụ trong phủ, việc gấp nhất bây giờ là phải làm việc công bằng mọi bề, mới khiến người ta tin phục được. Nếu chỉ vì ân oán cá nhân để cho người ta gắn mác coi thường chủ tử, cho Kha di nương có cớ tố cáo với phụ thân nơi đó, chẳng phải là lợi bất cập hại sao? Chưa kể, chuyện học lễ nghi quy củ vốn đã là cực khổ rồi, vú nuôi nếu nghiêm khắc dạy dỗ, với tính tình của Nhị cô nương, các muội đoán xem sẽ thế nào?”
Nhị cô nương mặc dù biết chút tính toán, nhưng rốt cuộc tuổi còn nhỏ, người thiếu nhất là kiên nhẫn, không chịu nổi người ta kích động, lại tính khí thất thường, cực kỳ chú trọng thể diện, nàng mà bị Phương mama dạy dỗ thì há có thể chịu đựng được? Cho dù Phương mama chẳng làm thêm động tác gì, sợ là Nhị cô nương đã muốn làm ầm lên rồi. Chỉ cần nàng ầm ĩ một trận, người trong phủ cũng sẽ lập tức biết, cô nương vì quan tâm đến Nhị cô nương nên đặc biệt phái Phương mama dạy lễ nghi cho Nhị cô nương, Phương mama cũng vô cùng tận lực dạy bảo, vậy nhưng Nhị cô nương lại không hề có đức hạnh như các cô nương khác, vô lễ với mama giáo dưỡng, nóng nảy kiêu căng, nói thẳng ra chính là tính nết ác liệt. Nghĩ như vậy, Thu Nhi, Đông Nhi hai mắt sáng ngời, chỉ cảm thấy vẫn là Tuệ An chu đáo, không hổ là chủ tử của các nàng, thật quá cao minh.
Phương mama biết là Tuệ An vì thanh danh của bà nên mới ra quyết định như thế, trong lòng cảm động khắc ghi, trên mặt vẫn thản nhiên, ôn nhu vuốt ve mái tóc của Tuệ An, thở dài nói: “Cô nương cứ yên tâm, vú nuôi sẽ cẩn thận.”
Phương mama vấn cho Tuệ An hai búi tóc tròn như trái đào nhỏ*, chọn một đôi trâm ngọc lưu ly rủ xuống tua rua bằng vàng cài trên búi tóc, bên tóc mai lại cài đóa hoa lan từ bạch ngọc chạm thành. Cầm một bộ váy áo hồng phấn thêu cành ngọc lan trước ngực mặc vào cho Tuệ An, tỉ mỉ đánh giá một phen, cảm thấy quá mức đơn giản. Nhớ tới lão thái quân Quan phủ kia hiện giờ đã bảy mươi lăm tuổi, bình thường người già đều thích những thiếu nữ ăn mặc xinh đẹp rực rỡ một chút, thế là lại từ trong hộp bàn trang điểm lấy ra một chiếc khóa ngọc tinh xảo đeo lên trước ngực Tuệ An, thêm một đôi vòng ngọc khảm hải đường vào tay, xem xét lần nữa, thấy cách ăn mặt này đã xinh đẹp phú quý, cũng lịch sự nhã nhặn, xong xuôi mới gọi Đông Nhi, Thu Nhi lại dặn dò thêm một lần, cuối cùng mới để Tuệ An ra cửa
Tuệ An để Hạ Nhi Xuân Nhi ở lại trong phủ cùng Phương mama, tránh cho Thu Lan viện thật sự làm ầm lên, Phương mama lại phải chịu thiệt. Cho nên dẫn theo nhị đẳng nha hoàn Thừa Ảnh, Minh Hồng, cùng bốn hộ vệ ngoại viện, đoàn người chậm rãi hướng đến Quan phủ.
Quan phủ ở phía tây của kinh thành, chiếm lĩnh cả Thanh Phong hạng, cũng là nơi ở trước đây của Ngụy Quốc công tiền triều, phủ đệ to như vậy là do Thánh tổ hoàng đế ngự ban. Trong Quan phủ những là tầng tầng lớp lớp sân viện, bởi vì trước kia là phủ Quốc công, nên theo như quy chế đã định ra, ba cửa năm lầu, cửa chính sơn son thiếp vàng phát ra ánh sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Trước cửa có hai tượng sư tử đá to, trên cửa chính treo một cái biển, to đùng hai chữ kim quang xán lạn “Quan phủ”, là bút tích của lão tổ tông Quan gia đã tạ thế ba trăm năm trước, Tể tướng tiền triều cũng là sao Bắc Đẩu của giới văn học Quan Khao.
Xe ngựa dừng lại, đã có gã sai vặt hiểu chuyện của Quan phủ mang ghế nhỏ đặt ở bên xe. Quan phủ là thế gia trâm anh, đứng đầu giới danh gia vọng tộc của Đại Huy, quy củ tất nhiên là nghiêm ngặt, Tuệ An sửa sang lại quần áo, xong mới vịn tay Đông Nhi dẫm lên ghế con bước xuống. Bên kia Thu Nhi đã đưa thiếp mời cho mama quản sự, có thể là do chủ tử quý phủ đã có dặn dò, mama kia chỉ cười với Thu Nhi cũng không xem thiệp mời nàng đưa lên đã vội cho gã sai vặt chạy vào báo tin.
Chốc lát sau có một mama tuổi chừng trên dưới năm mươi cùng hai tiểu nha hoàn ra đón, mama này thân mình mập mạp, mắt một mí, mặt mày tròn trịa, vừa ra khỏi cửa đã đã tươi cười nhìn về phía Tuệ An, vẻ mặt ôn hòa nói: “Thỉnh an Thẩm tiểu thư, tiểu thư đã tới, lão thái quân phủ chúng ta cứ hỏi tiểu thư mãi thôi. Các cô nương quý phủ cũng đã tề tựu ở Phúc Đức viện, chỉ còn chờ Thẩm tiểu thư mà thôi.” Phía sau bà hai tiểu nha hoàn đều chải hai búi tóc tròn, mặc áo vàng váy xanh, bên hông đeo dây như ý đỏ tươi, mỗi người nâng một cái khay, cười tiến lên nhận lấy lễ vật hai người Yển Nguyệt đưa.
Tuệ An thấy mama này mặc áo vải màu xám, nơi cổ lẫn ống tay áo đều đính thêm lông dày ấm áp, trên đầu chỉ búi một búi tóc đơn giản như những mama quản sự bình thường, còn cài một cây trâm ngọc thượng đẳng, toàn thân vừa mộc mạc lại vừa cực kỳ cao sang, biết ngay bà ở trong phủ nhất định cũng là một mama được tín nhiệm. Lại nghe bà nhắc tới Quan lão phu nhân, biết bà là người trong viện lão thái quân, cũng không dám nhận bà hành lễ, vội nghiêng người tránh đi, cười nói: “Không biết phải xưng hô với mama thế nào?”
Mama kia thấy Tuệ An tránh lễ của mình cũng không nhiều lời, cười nói: “Nhà chồng lão nô họ Vệ.”
Tuệ An gấp rút nhún người thi lễ: “Thì ra là Vệ mama, làm phiền mama quá.”
“Thẩm tiểu thư làm lão nô tổn thọ mất thôi, bên ngoài gió lớn, Thẩm tiểu thư mau vào đi.”
Tuệ An đi theo Vệ mama vào Quan phủ, được đỡ lên kiệu đã sớm để sẵn, một đường hướng vào trong viện mà đi. Tuệ An ngồi trong kiệu, xem xét một lượt, thấy trong kiệu lót thảm bằng da cáo, nệm gấm cực kỳ ấm áp, bốn phía vách dùng da trăn phủ kín không một kẽ hở, trang trí vô cùng phú quý.
Tuệ An dựa vào nệm êm khẽ liếc qua bên ngoài, chỉ thấy trong phủ khắp nơi đều là cảnh đẹp hiếm có, đâu đâu cũng lộ vẻ quý tộc, nhưng lại không hề xa hoa. Trong viện trồng đầy kỳ hoa dị thảo, cổ thụ trăm năm, mỏm đá ngọc thạch, bồn hoa cây cảnh nhiều không kể xiết, đình đài hành lang tinh xảo mà truyền thống, đặc biệt là vườn hoa trong phủ, dẫn nước chảy vào, núi giả muôn hình vạn trạng, cây cầu vắt ngang dòng nước, toát lên một vẻ hàm xúc chẳng khác nào đang đứng ngay giữa vùng sông nước Giang Nam. Ngụy Quốc công kia là kẻ sĩ phương Bắc, tất nhiên không thể sắp xếp nhà mình như thế, nhưng gia tộc Quan gia xuất thân quận Giang Dương ở Giang Nam, Tuệ An vừa thấy cũng biết vườn này nhất định là Thánh Tổ ngự ban sau được Quan gia tu sửa lại, khó trách mặc dù trạch viện hiển quý nhưng nơi nơi vẫn tràn đầy hơi thở thanh cao thoát tục.
Tuệ An ngồi kiệu đi thẳng qua vườn hoa, lúc này Vệ mama vẫn luôn đi theo bên kiệu mới cười nói: “Bởi vì lão thái quân chúng ta xưa nay yêu thích yên tĩnh, nên mới chọn Phúc Đức viện phía tây phủ, tốn chút thời gian đi lại. Bây giờ đang rét đậm, vườn hoa lại không thể cản gió, gió rét thấu xương, hay là để lão nô buông màn kiệu chắn lại gió đông cho cô nương?”
Tuệ An lúc này mới nhận ra gió thổi qua gò má quả thực rét lạnh vô cùng, đang muốn nói lời cảm tạ, lại nghe một trận ồn ào từ phía đông hoa viên theo gió truyền tới. Lờ mờ nghe như tiếng động vật kêu rên, còn có tiếng người hét lên thảm thiết.
Sắc mặt Vệ mama khẽ biến, dừng lại bước chân, lại lập tức vừa cười vừa nói với Tuệ An: “Bên đó là Kỳ Phong viện của Tam thiếu gia nhà chúng ta, phía sau có một cái sân nhỏ lấy làm chuồng ngựa, chiến mã của Tam thiếu gia vẫn được nuôi trong Kỳ Phong viện, đều là Tam thiếu gia sáng tối đích thân cho ăn, hiện giờ thiếu gia không có trong phủ, chắc là con ngựa kia lại giở thói nổi cáu lên… Đã khiến tiểu thư phải sợ hãi rồi.” Bà nói xong, liền quay đầu phân phó tiểu nha hoàn sau lưng: “Thất Nhi, đi xem có chuyện gì xảy ra, hôm nay trong phủ có khách quý đến chơi, nhanh nói Thanh Minh trấn an ngựa lại.”
Tiểu nha hoàn tên Thất Nhi vội vàng đáp một tiếng, bước nhanh mà đi, bất quá nháy mắt nàng đã trở lại, sắc mặt còn có phần lo lắng hồi bẩm với Vệ mama, nói: “Con ngựa tên Lưu Vân đến lúc sinh nở ạ, hình như là khó sinh, vừa rồi Lăng Phong lại nổi cơn điên, còn đá bị thương người thú y đỡ đẻ, đúng lúc Tam thiếu gia lại không có trong phủ, Lăng Phong của Tam thiếu gia mama cũng biết, nổi điên lên thì ai cũng không chế ngự được. Bây giờ Lam Phi đang cuống quít mời đại phu đến chữa trị cho thú ý kia, Thanh Minh thì cho người đi tìm Tam thiếu gia về, e là Kỳ Phong viện còn ầm ĩ một hồi, kính xin Thẩm tiểu thư bỏ quá cho.” Nha hoàn Thất Nhi này cũng là người lanh lợi, một lúc đã đem mọi chuyện nói rõ ràng, xong còn cung kính thi lễ với Tuệ An một cái.
Vệ mama nghe vậy hai mày khẽ nhíu, kinh ngạc nói: “Sao còn đả thương người, Lăng Phong có sao không? Nó là bảo bối của Tam thiếu gia, đừng để nó bị thương mới tốt.” Nói xong, quay lại cười với Tuệ An, nói: “Con ngựa Lăng Phong kia là ngựa mà Tam thiếu gia thường xuyên dùng để đi lại, tính tình ác liệt, lại thêm Lưu Vân khó sinh, mới gây ra động tĩnh lớn như vậy, Thẩm tiểu thư chớ để ý.”
Trước lúc Tuệ An đến đây đã đặc biệt hỏi Phương mama về tình trạng Quan phủ, bây giờ Quan phủ vì lão thái quân còn tại thế nên vẫn chưa ra riêng, Quan lão thái gia con cái đông đúc có sáu nam năm nữ, Đại lão gia, Nhị lão gia cùng Nhị tiểu thư đều là do Quan lão thái quân sở sinh, những người còn lại thì là thứ xuất. Hiện tại Quan phủ ở kinh thành cũng chỉ có chi thứ nhất, chi thứ hai với tam phòng, mà Quan Nguyên Hạc chính là trưởng tử đích tôn, nhưng ngoài ra vẫn còn hai ca ca cùng mẹ, chỉ tiếc một người chỉ sống đến năm sáu tuổi, một người vừa sinh ra đã yếu ớt, thuốc thang liên miên đến năm bốn tuổi cũng mất. Vốn ở Quan phủ Quan Nguyên Hạc xếp thứ ba, lại vì hai ca ca đã qua đời mà lên thành trưởng tử, chỉ là bọn hạ nhân trong phủ vẫn xưng là Tam thiếu gia mà thôi.
Tuệ An nghe vậy lại cười, xem ra Lưu Vân chính là con ngựa mẹ đang khó sinh, vậy con ngựa con chết bầm trong bụng nó chắc là tác phẩm của Lăng Phong kia. Con Lăng Phong này đúng là có linh tính, không khác gì một người hiểu chuyện, thấy ngựa mẹ sinh con khó khăn, còn biết đường tức giận, thật là thú vị. Lúc trước Tuệ An từng nghe mẫu thân nói qua, một con ngựa thượng hạng chắc chắn sẽ có tình cảm, giống như người bình thường, bọn chúng cũng biết bảo vệ gia đình của mình, đây không phải đang chỉ Lăng Phong sao.
Tam thiếu gia trong miệng Vệ mama tự nhiên là Quan Nguyên Hạc, nghĩ đến ngựa y cưỡi, Tuệ An trong lòng khẽ động, vội hỏi: “Chẳng lẽ Lăng Phong là một con ngựa thuộc giống Bắc Hồ, toàn thân đen tuyền, khỏe mạnh tráng kiện, cực kỳ cao lớn sao?”
Vệ mama cũng không thấy lạ khi Tuệ An biết Lăng Phong, gật đầu đáp: “Đúng vậy, nghe nói là vua chúa của những con ngựa trên thảo nguyên, sau khi bị Tam thiếu gia thuần phục thì chưa bao giờ để người khác cưỡi lên mình, tính tình dữ tợn vô cùng, là bảo bối của Tam thiếu gia chúng ta. Xem tình huống bên đó có vẻ không tốt cho lắm, lỡ mà Lăng Phong có chuyện gì thì Tam thiếu gia chắc cũng đau lòng. Nghe nói Lưu Vân cũng là ngựa tốt hiếm có, không biết lúc này mới mời thú y đến, còn kịp hay không nữa. Ôi, mỗi chuyện sinh nở của ngựa thôi sao cũng khiến người ta phải bận tâm thế chứ.” Lời nói của bà đã mang theo chút lo lắng không nguôi.
Tuệ An nghe vậy mới có thể khẳng định con Lăng Phong kia chính là con ngựa nàng đã thấy ở trước phủ Định Bắc vương. Tuệ An là một người yêu ngựa, lúc này nghĩ đến thái độ cao ngạo cùng ánh nhìn bất kham của Lăng Phong kia, mắt cũng nóng lên. Lại nhớ đến lời nói ban nãy của tiểu nha hoàn Thất Nhi, nói là thú y đỡ đẻ bị đá vào người, Lưu Vân cũng đang khó sinh, trong lòng Tuệ An bất giác lo lắng theo.
Đúng vào lúc này bên kia lại truyền đến một tiếng rên rỉ, tiếp theo là một hồi thanh âm náo động, nghe như vậy ắt hẳn là tình huống không được tốt. Tuệ An nhất thời nóng vội, nghĩ dẫu gì thì mình coi như cũng học được một ít bản lĩnh thuần ngựa của mẫu thân, càng đã từng chứng kiến mẫu thân đỡ đẻ cho ngựa, do dự một lát cuối cùng hạ quyết tâm, cười với Vệ mama nói: “Ta đã từng thấy qua mẫu thân ta đỡ đẻ cho ngựa đôi lần, trước kia đã từng học chút kỹ xảo thuần ngựa ở chỗ mẫu thân, nếu mama không chê thì có thể đưa ta đến Kỳ Phong viện xem qua có được không? Có lẽ cũng có thể giúp được đôi phần.”
Vệ mama nghe vậy thì lưỡng lự một hồi, thú y trước bị đá thương, bà cũng lo lắng Lăng Phong bị thương, lại còn Lưu Vân kia nghe nói là sủng vật của Tần vương, người ta đem ngựa quý đưa đến Quan phủ là tin tưởng Tam thiếu gia, nếu có xảy ra chuyện gì, chỉ sợ Tam thiếu gia cũng không thể giao phó với Tần vương. Cho nên vừa nghe Tuệ An nói biết ít thủ thuật thuần ngựa, Vệ mama cũng động lòng muốn cho Tuệ An đi xem một chút. Nhưng lại cảm thấy Tuệ An suy cho cùng cũng là khách đến phủ, ngựa sinh chắc chắn sẽ vấy máu, dơ bẩn vô cùng, không thể phiền nhiễu đến khách quý, việc này nếu truyền ra ngoài để người khác biết sẽ cười Quan phủ coi thường khách quý, không hiểu lễ nghi. Mà ngựa đã điên lên thì ai biết sẽ có chuyện gì, chẳng may làm Tuệ An bị thương, đến lúc đó sợ là ngay cả lão phu nhân cũng sẽ giáng tội.
Tuệ An thấy Vệ mama do dự, lại cười nói: “Mama cứ yên tâm, ta đây đã gặp qua Lăng Phong, trong lòng cực kỳ yêu thích, lúc này cũng sốt ruột không kém. Ta chỉ nhìn một chút nếu có thể giúp thì tốt, còn không cũng sẽ tránh qua một bên, nhất định sẽ không để bản thân bị thương. Hơn nữa, hôm trước Quan tướng quân còn cứu tiểu nữ một mạng, đại ân đại đức không lời nào cảm tạ hết được, hôm nay ngựa quý của ân nhân nguy hiểm cận kề, ta cũng muốn tận lực giúp đỡ một phen, ít nhiều gì cũng coi như báo ân. Nếu lão phu nhân trách tội xuống, mama cứ một mực nói ta tự mình chủ trương, như vậy có được không?”
Vệ mama nghe vậy trên mặt thoáng hiện lên vẻ lúng túng, vội vàng cười nhẹ một tiếng, nói: “Sao Thẩm tiểu thư lại nói như thế, lão chỉ lo thứ ô uế như máu me sẽ vấy lên người cô nương thôi.”
Tuệ An thấy bà có vẻ đã đồng ý, liền bước xuống kiệu, cười nói: “Như vậy cũng không sao, có thể mama không biết, ngoại tổ phụ của ta đã từng là thương gia buôn bán ngựa, có việc nặng nhọc dơ bẩn gì người chưa làm qua? Về sau bị thời thế bức bách mới trở thành Đại vương trên núi, sau khi gặp được Thánh Tổ thì tòng quân. Mẫu thân đã khuất của ta chẳng lẽ chưa từng xông pha chiến trường, giết qua kẻ địch? Không biết bao lần đã giúp ngựa sinh đẻ. Nhà chúng ta không kiêng kỵ những chuyện thế này đâu, mama cứ mang ta đi xem một chút đi.”
Lai lịch của Thẩm Cường và Thẩm Thanh, Vệ mama đương nhiên cũng biết, mà cũng bởi vì Tuệ An nói những lời này, phủ Phượng Dương hầu luôn bị người ta cười chê, bị nói là ba đời thô thiển, xuất thân đê hèn. Cho tới bây giờ không phải chưa từng nghe người đồn đại Tuệ An ăn nói điêu ngoa lại lỗ mãng. Nay bà thấy Tuệ An ăn mặc đứng đắn, cử chỉ cao quý mới nghĩ thầm lời đồn không thể tin, giờ lại thấy nàng vẻ mặt ôn hòa, không hổ thẹn mà nói ra chuyện tổ tiên từng là thương gia bán ngựa, hơn nữa trong lời nói còn có phần kiêu ngạo, thì càng thêm xem trọng Tuệ An, cảm thấy nàng tuy còn nhỏ nhưng đã có phong thái cao sang khác người, hơn nữa còn là một cô nương không có mẹ chăm sóc, vì vậy trong lòng thân thiết hai phần, tươi cười ấm áp, nói: “Vậy lão đây cảm ơn Thẩm tiểu thư trước, mời tiểu thư sang bên này.”
Tuệ An đi theo Vệ mama vào Kỳ Phong viện của Quan Nguyên Hạc, chỉ thấy phong cách xây dựng của viện này khác hẳn với lối trình bày của Quan phủ, viện nhìn qua rất lớn, đình viện xây vô cùng phóng khoáng, không hề trồng hoa hay cây cảnh gì cả, chỉ có vài đại thụ cành lá sum xuê, cho dù đang trong mùa đông vẫn xanh um một màu, nhờ vậy mới tăng thêm chút sắc màu cho viện. Người làm trong viện hình như cũng chẳng có là bao, ngay cả một bóng người cũng không trông thấy, tuy là nhìn kỹ cũng cảm giác được không gian xưa cũ, nhưng vẫn không xua tan được vẻ lạnh lùng hiu quạnh.
Tuệ An theo Vệ mama vòng qua hai sân nhỏ, đi thẳng về phía chuồng ngựa sau Kỳ Phong viện, thanh âm ồn ào càng văng vẳng bên tai, qua một hành lang quanh co cùng một cánh cổng hình hoa sen, thì chuồng ngựa đã hiện ra trước mắt. Tuệ An giật mình nhận ra khu chuồng ngựa này quả thật lớn hơn bình thường rất nhiều, ít nhất cũng phải chiếm đến ba mẫu đất, phía tây xây một cái chuồng ngựa, lúc này bên đó có một toán người đang xúm quanh, náo loạn ầm ĩ.
Tuệ An liếc mắt đã thấy Lăng Phong bị hai nam tử mặc đồ hộ vệ kéo sang một bên, đang quẫy đạp hai vó, thỉnh thoảng lại rống lên hai tiếng như muốn vùng ra chạy đến cái chuồng bên cạnh. Hai hộ vệ kia có vẻ là người luyện võ, dáng người lực lưỡng, hai tay mạnh mẽ giữ chặt lấy dây cương, còn lo tránh không cho Lăng Phong đá trúng, sớm đã mồ hôi đầm đìa, cực kỳ nhếch nhác. Bên ngoài chuồng ngựa còn có một cái chiếu, thú y bị thương đang nằm rên rỉ ở đó, được hạ nhân từ phía sau đỡ, vẻ mặt đau đớn, chân tay cứng ngắc, tóc tai cũng đầy mồ hôi bết lên trên mặt, e là đã gãy xương sườn. Phần lớn những người còn lại thì vây quanh chuồng ngựa, ầm ĩ lộn xộn, hình như trong chuồng ngựa còn loáng thoáng có tiếng ngựa kêu.
Vệ mama thấy thú y kia bị thương không nhẹ, nơi này lại loạn thành như vậy, cũng không dám để cho Tuệ An đến gần nữa, vội vàng khuyên nàng rời đi.
Tuệ An đến cũng đã đến rồi, đâu chịu nghe bà, chỉ cười nói: “Không sao đâu, mama nghe xem trong chuồng ngựa đã không còn thấy có tiếng kêu rên nữa rồi, sợ là Lưu Vân không chờ được thú y mới đến mất, cứ cho ta nhìn qua một chút đi, mama yên tâm, nếu như có nguy hiểm gì, ta sẽ lập tức tránh ra ngay.” Nói xong dẫn Đông Nhi, Thu Nhi bước nhanh về phía chuồng ngựa, Vệ mama thấy không khuyên được nàng cũng gấp gáp chạy theo.
Tuệ An đến nơi, mới nhìn thấy Lưu Vân mà Thất Nhi nói. Quả thật có thể xứng đôi với Lăng Phong, toàn thân trắng như tuyết, tuy là không còn hơi sức, nhưng vẫn nhìn ra được thân mình săn chắc của nó. Chỉ là lúc này lớp lông dài trắng xóa đã sớm thấm đẫm mồ hôi, nó nằm trên một lớp rơm rạ dày, trên mình còn đắp một mảnh gấm xanh, thân dưới vấy đầy máu đen, hiển nhiên là đã vỡ nước ối, sợ là từ lúc bắt đầu sinh đến giờ đã mấy canh giờ. Sức lực sớm đã dùng hết, đang nằm trên mặt đất thở hổn hển, chỉ còn đôi con ngươi đen nhánh vẫn sáng rỡ như trước, dường như đang nhìn ra Lăng Phong phía ngoài, ánh mắt đau khổ mà quyến luyến, Tuệ An nhìn đến nhập tâm, khó trách Lăng Phong lại nóng nảy đả thương người như thế.
Tuệ An thấy một đám người chỉ biết vây quanh Lưu Vân trong chuồng ngựa, bên kia thì luống cuống không dám buông lỏng phòng bị với Lăng Phong, mỗi người ai nấy mồ hôi như tắm, mặt mũi cuống cuồng sợ hãi, cũng bực mình lên. Bọn họ cứ đứng như trời trồng như vậy, Lưu Vân nếu chết thật thì không biết đã chết bao nhiêu lần rồi.
Nhưng mà cũng phải nói đến, Quan Nguyên Hạc có được bảo mã trăm năm khó gặp như Lăng Phong, nhất định là yêu quý đến xương, mà Lưu Vân cũng là ngựa quý hiếm có, nói không chừng, theo tính tình của y có khi còn ra quân lệnh các kiểu ấy chứ, như là hai con ngựa này mà xảy ra chuyện gì sẽ lấy quân pháp xử trí chẳng hạn, nếu không những người này sao phải lo lắng bất an đến thế?
Tuệ An nghĩ vậy cũng không trì hoãn nữa, cất bước đến bên Lăng Phong đang nổi điên, nàng vừa đến gần, vừa thử duỗi tay ý muốn bình ổn Lăng Phong. Vệ mama thấy Tuệ An vài bước đã đến trước mặt Lăng Phong, bị dọa đến biến sắc, nhưng lúc này bà cũng không dám tiến lên ngăn cản, sợ Lăng Phong bị kinh hãi lại đả thương Tuệ An thì không hay.
Hành động của Tuệ An sớm đã thu hút sự chú ý của mọi người, mọi người dù không biết nàng là ai, nhưng đều nhìn chằm chằm mà toát mồ hôi thay nàng. Mà Lăng Phong cũng chú ý đến Tuệ An, đối với ý đồ muốn tiếp cận của nàng vẫn im lặng không phản ứng, sau đó rất không vui hí lên một tiếng giương cao vó trước.
Động tác của nó khiến tiếng hít khí đồng loạt vang lên ở khắp nơi, Tuệ An lại như không có việc gì, cười với Lăng Phong nhẹ giọng nói: “Đừng sợ, ta không có ác ý, ta muốn giúp Lưu Vân. Ngươi nhìn nó đang khó chịu như vậy, nhưng ngươi vẫn chỉ nổi nóng khiến mọi người không làm được gì, chẳng phải sẽ hại Lưu Vân sao. Ta biết ngươi cũng lo lắng, nhưng ngươi càng như thế thì càng không giúp được Lưu Vân, còn chậm trễ thời gian. Ngươi bình tĩnh một chút có được không?”
Nàng vừa nói vừa đến gần, vẻ mặt thân thiện duỗi tay dò xét, ôn nhu vươn tới gần Lăng Phong, trong miệng liên tục nói những lời trấn an. Hình như Lăng Phong cũng cảm nhận được sự thân mật của nàng, cũng không giương chân, chỉ lúng túng đứng một chỗ, Tuệ An thấy vậy lại tiến thêm một bước, chạm đến mũi của Lăng Phong, tức thì Lăng Phong khàn khàn hí lên một tiếng như sắp sửa nổi điên.
“Thẩm tiểu thư mau tránh ra!” Vệ mama quá sợ hãi, hét to một tiếng.
Tuệ An làm như không nghe thấy, vẫn lấy tay vuốt ve Lăng Phong, cười nói nhỏ: “Chúng ta đã từng gặp nhau, ngươi không nhớ sao? Ta thật sự không có ý xấu, chúng ta bình tĩnh lại cùng nhau giúp Lưu Vân sinh tiểu mã có được không?”
Chầm chậm, dưới sự vuốt ve của nàng Lăng Phong thật không tiếp tục nổi điên nữa, chỉ có hai vó là vẫn đạp đạp không yên. Nhưng rất nhanh, nó đã hoàn toàn yên tĩnh trong tiếng thì thầm nỉ non của Tuệ An, ngay cả lúc Tuệ An ôm lấy cổ Lăng Phong, nó cũng không tức giận, chỉ như không vui lúc lắc cái cổ, nhìn về phía Lưu Vân hừ hừ hai tiếng.
Mọi người nhìn một màn này mà như muốn rơi cả mắt, Đông Nhi Thu Nhi cũng cảm thấy vừa rồi con tim như sắp nhảy khỏi lồng ngực cũng đã trở về vị trí cũ.
Người làm với mấy người trông ngựa đưa mắt nhìn nhau, khuôn mặt không kìm được vẻ khâm phục lại khó tin, mỗi người đều không hẹn mà thở phào một hơi. Phải biết là tướng quân cực kỳ yêu thương Lăng Phong, ngựa này có nổi nóng đá vào bọn họ cũng không sao, nếu khiến nó bị thương, vậy bọn họ cũng chỉ có nước chôn cùng. Nhưng Lăng Phong nổi điên hết lần này đến lần khác căn bản không ai có thể đến gần, hai người hộ vệ kéo nó khi nãy cũng là đã từng đi theo Quan Nguyên Hạc cho nó ăn đôi lần, nên mới liều mình dắt nó. Bây giờ vị tiểu thư không biết ở đâu xuất hiện này lại có thể làm Lăng Phong bình tĩnh xuống, quả thật không thể tin nổi, chẳng khác nào đã cứu cái mạng nhỏ này của họ. Thế nhưng vẫn còn một Lưu Vân đang khó sinh, sắc mặt mọi người lại quay về nét khó coi, Lưu Vân kia cũng không thể xảy ra chuyện gì được, nó là ngựa yêu của Tần vương điện hạ, nếu xảy ra chuyện bọn họ có khi còn phải chôn thêm lần nữa ấy chứ.
Tuệ An trấn an Lăng Phong xong thì nâng váy bước vào chuồng ngựa, đã thấy bản lĩnh của nàng nên mọi người cùng nhau tự giác nhường đường cho nàng bước tới, Tuệ An ngồi xuống bên cạnh Lưu Vân, đầu tiên vuốt ve mũi nó tỏ vẻ trấn an, sau mới đặt tay lên bụng của nó, cảm nhận được vị trí và hình dạng của ngựa con. Vừa vuốt bất giác lại nhăn mày, Lưu Vân này nhìn qua chắc tầm ba bốn tuổi, loài ngựa năm tuổi mới được tính là trưởng thành, Lưu Vân lần này có lẽ là thai đầu, nhưng ngựa con trong bụng lại lớn hơn bình thường, thế này không khó sinh mới là lạ.
“Lưu Vân sao rồi?” Một bóng đen ập đến, thanh âm trầm trầm từ bên cạnh truyền tới, Tuệ An kinh ngạc ngẩng đầu đã thấy Quan Nguyên Hạc chăm chú nhìn mình.
Thật ra khi Tuệ An đến gần Lăng Phong thì y đã vào trong sân, từ xa thấy Tuệ An đưa tay vuốt ve Lăng Phong, y dù không tính là người am hiểu về ngựa, nhưng cũng là kẻ yêu ngựa, biết chút thủ thuật thuần ngựa, những động tác Tuệ An dùng để trấn an Lăng Phong ban nãy nhìn qua có thể không thấy lạ lùng gì, nhưng Quan Nguyên Hạc nhìn một cái đã biết đó là một trong những thủ thế bí truyền của bộ tộc thuần mã sư của Bắc Hồ, thấy Tuệ An sử dụng lưu loát như vậy, Quan Nguyên Hạc kinh ngạc nhướng mày. Sau lại thấy Tuệ An ngồi xuống xem xét tình trạng của Lưu Vân, nhớ đã từng nghe nói trong quân doanh Thẩm gia người người quý ngựa như mạng, cũng tin Tuệ An có cách xử lý, cho nên lúc này mới bước ra hỏi một câu.
Bởi vì Tuệ An đang ngồi dưới đất, nên không thể không ngẩng đầu nhìn Quan Nguyên Hạc, chỉ thấy y khoác trên người một bộ trường bào xanh lam thêu chữ vân, chân mang giày tường vân đen. Lúc này y từ trên cao cúi xuống nhìn mình, thân hình cao lớn ngăn cản ánh mặt trời, Tuệ An nheo mắt cũng chỉ nhìn được mang máng khuôn mặt của y, cùng cây trâm ngọc bích y cài trên đầu, nhưng khí thế áp đảo quanh thân người này vẫn luôn khiến người ta chán ghét.
Lần nào y cũng dùng cái vẻ cao cao tại thượng như thế nhìn mình, trong lòng lại nổi giận, Tuệ An từ dưới đất bật dậy, nhưng vừa đứng lên nàng mới phát hiện Quan Nguyên Hạc vẫn cúi người ngay bên cạnh, lần này đầu của nàng suýt nữa thì đụng phải cằm của y, Tuệ An lúng túng lùi về sau hai bước, trong lòng lại lẩm bẩm. Người này thật đúng là, cũng không biết đường mà tránh ra. Điều chỉnh lại nét mặt, nàng mới ngẩng đầu nhìn Quan Nguyên Hạc.
Thấy trên trán y nổi một tầng mồ hôi, có vẻ như vừa từ bên ngoài vội vã chạy về, cũng không khách khí gì nữa, quyết đoán nói: “Lưu Vân là thai đầu, thai quá lớn, khó sinh. Hơn nữa ta vừa sờ hình như nước ối đã vỡ được một thời gian, không thể không sinh, mà sinh thì e là sẽ chết cả mẹ lẫn con.”
Quan Nguyên Hạc nghe vậy lông mày càng nhíu chặt, lại nghiêng đầu liếc về phía ngoài chuồng ngựa, thú y bị Lăng Phong đả thương đang cố gượng dậy, làm sao dám nằm tiếp, cuống quít cho người đỡ dậy, thấy Quan Nguyên Hạc đưa mắt nhìn sang, sợ đến run rẩy, lắp bắp nói: “Vị tiểu thư này nói rất đúng, lão đã rót cho nó một chén thuốc trợ sản, nhưng vì thai quá lớn, nên vẫn không ra được.”
“Bây giờ có thể làm gì?” Quan Nguyên Hạc nghe vậy ánh mắt càng lạnh, lại hỏi.
Thú y kia bị ánh mắt lạnh thấu xương của y quét qua, nhất thời mồ hôi đầm đìa, Lưu Vân này là bảo mã thượng hạng, nếu như thật có chuyện gì thì dù ông có đập nồi bán sắt cũng không đền đủ một cái đùi ngựa, hiện giờ ngựa mẹ đã bị tiêu hao thể lực, mà còn thể lực thì cũng chưa chắc đã sinh được, ông đâu còn biện pháp nào khác cơ chứ? Đúng lúc này Lăng Phong lại cuống cuồng hí lên một tiếng, thú y thấy hai vó của Lăng Phong lại muốn đá mình thì lập tức sắc mặt tái xanh, trước mặt tối sầm hôn mê bất tỉnh.
Quan Nguyên Hạc thấy vậy cũng không động lông mày, quay đầu nhìn chằm chằm Tuệ An: “Nói”.
Tuệ An bị biểu hiện của thú y làm cho há hốc miệng, lúc này thấy Quan Nguyên Hạc vẻ mặt băng giá nhìn mình chằm chằm, nhịn không được co rúm người lại, trong lòng thầm mắng sao phải ác liệt đến thế, có việc nhờ người ta mà vẫn không coi ai ra gì như vậy, ngoài miệng lại ngoan ngoãn nói: “Lúc trước ta đã từng thấy mẫu thân dùng biện pháp đem thai kéo ra khỏi ngựa mẹ, chỉ là khi đó ta tuổi còn nhỏ, không biết có thể nhớ hết không. Hay là để ta nói, cho một người làm theo lời ta thử xem có được không? Nhưng nếu như không cứu được Lưu Vân, ngài cũng không thể trách ta.”
Quan Nguyên Hạc nghe vậy không nói hai lời cuốn tay áo lên, đi đến bên cạnh Lưu Vân đã thở không ra hơi mà ngồi xuống, lạnh lùng nói: “Cô nương nói đi, ta làm.”
Tuệ An đã bao giờ thấy người theo trường phái hành động như vậy, sững sờ một lúc mới vội vàng nhìn về phía Vệ mama bên cạnh: “Làm phiền mama mang một thùng dầu cải, hai cái dây thừng dày cỡ một ngón tay, còn cả một bình rượu mạnh đến đây.”
“Xin tiểu thư chờ một chút, nô tài đi tìm ngay.” Vệ mama chưa kịp phản ứng, gã sai vặt thanh tú vẫn đứng bên cạnh Quan Nguyên Hạc đã lập tức đáp một tiếng, chạy như bay ra ngoài. Chỉ một lát sau, gã sai vặt một tay thùng dầu, một tay vò rượu, trên cổ quấn hai cái dây thừng chạy trở về, thở hồng hộc để đồ xuống đất.
Tuệ An thấy Quan Nguyên Hạc nhìn sang, vội nói: “Đầu tiên ngài dùng rượu rửa đi, cánh tay của ngài ấy.” Bốn phía lại vang lên tiếng hít sâu, Quan Nguyên Hạc trừng ánh mắt rét lạnh nhìn qua, Tuệ An mới nhận ra mình vừa nói gì. Vội vàng đưa tay sờ mũi, lúng túng cười nói: “Không phải ta nói ngài bẩn, mà là ta nghe mẫu thân nói, dùng rượu rửa sạch tay sau đỡ đẻ cho ngựa, thì vết thương trong mình ngựa mới không bị nhiễm trùng.”
Lúc này Quan Nguyên Hạc mở ra vò rượu cẩn thận rửa sạch hai tay, Tuệ An cũng mang hai sợi dây thừng ném vào vò rượu. Thấy y lại nhìn, Tuệ An nhìn Lưu Vân đang hấp hối, trong lòng căng thẳng, sợ phạm sai lầm, liền ngồi xuống bên cạnh Quan Nguyên Hạc, nói: “Tay ngài đưa vào cơ thể ngựa mẹ nắm lấy hai chân trước của thai nhi.”
Nàng vừa nói xong, Quan Nguyên Hạc cũng theo lời đem tay phải dễ dàng đưa vào, dường như Lưu Vân cảm nhận được vật lạ tiến vào nên khẽ giãy dụa, hừ một tiếng.
Tuệ An thấy tay phải y vẫn dò xét trong cơ thể ngựa, vội hỏi: “Sao rồi? Có phải ngựa con rất lớn không? Nó còn sống không?” Cổ tử cung của Lưu Vân đã sớm mở ra, Quan Nguyên Hạc từ từ chuyển động cánh tay phải, lần mò hồi lâu cũng mò tới ngựa con. Ngựa con quả thật không nhỏ, hơn nữa hướng mông ra ngoài, tay của y nhất thời không thể chạm đến miệng nó. Cũng may tay y vừa sờ thì ngựa con đã hơi giật giật, hiển nhiên là còn sống.
Trong lòng y hơi buông lỏng, lại nghe bên tai truyền đến thanh âm lo lắng của Tuệ An, Quan Nguyên Hạc cũng không quay đầu nhìn nàng, tiếp tục đưa tay tìm hai chân trước của ngựa con, chỉ trầm giọng nói: “Còn sống.”
Tuệ An nghe vậy thì thở phào một hơi, lại lập tức sợ hãi hô lên một tiếng: “Thôi chết, quên dùng dầu cải.” Nàng nói xong nhảy dựng lên, nhấc thùng dầu cải kia gấp gáp đổ vào thân dưới Lưu Vân, “Rầm” một tiếng dầu cải chẳng những tưới đầy một thân Lưu Vân, còn ướt sũng cả hai cánh tay Quan Nguyên Hạc. Trong mắt Tuệ An thoáng hiện tia giảo hoạt, trên mặt lại tỏ vẻ áy náy, vội nói:
“Xin lỗi xin lỗi, làm bẩn y phục của ngài rồi. Chuyện này…Ngựa mẹ sinh lần đầu đường thai nhi vẫn còn hẹp, ngựa con lại lớn, chắc chắn sẽ khó sinh, cho dù có cố kéo ra, cũng sẽ khiến ngựa con gãy cổ, gãy chân, thai chết, hoặc là làm cho đường thai của ngựa mẹ bị rách dẫn đến xuất huyết, thì cả mẹ lẫn con đều chết, bây giờ nước ối đã cạn, nếu muốn kéo được ngựa con ra ngoài, phải dùng dầu cải làm trơn, mới dễ dàng hơn được, Lưu Vân cũng ít đau hơn, chuyện kia…Vừa rồi ta quên mất.”
Quan Nguyên Hạc liếc Tuệ An một cái, ai không biết nàng là đang báo thù cho hôm uống rượu giao bôi bị rượu tung tóe lên mặt kia chứ, còn nói năng đến là hùng hồn. Y khẽ híp mắt, lại chuyên chú nhìn về phía Lưu Vân. Đợi sờ được hai chân trước của ngựa con, mới nói: “Đem dây thừng lại cho ta.” Đã có hộ vệ ở bên cạnh cầm sẵn sợi dây thừng được tẩm qua rượu cung kính đưa lên cho y. Lần lượt thắt hai cái dây thừng vào chân trước ngựa con xong, Quan Nguyên Hạc mới lại nhìn sang Tuệ An.
Tuệ An vội nói: “Ngài hãy điều chỉnh lại vị trí của thai, đem đầu thai hướng về phía chân trước là được.” Quan Nguyên Hạc nghe nàng nói có lý, cũng làm theo, Tuệ An thấy y đột nhiên dừng lại động tác, sốt ruột nói: “Xong chưa? Đợi lát nữa Lưu Vân muốn sinh thì kéo một chân ra trước, sau đó kéo cái còn lại, để hai chân trước lần lượt từ bên cạnh xương chậu kéo ra ngoài.”
Thấy Quan Nguyên Hạc nhìn có ý không hiểu, Tuệ An gấp rút giải thích: “Bởi vì khi lần lượt kéo hai chân của ngựa con ra sẽ có trạng thái mở rộng hơn, nếu để phía trước của nó nghiêng theo phần xương chậu trong cơ thể mẹ, thì ngựa con sẽ ra ngoài thuận lợi hơn. Khi ngài kéo thì Lưu Vân ắt sẽ co giật lại, khi đó đầu của ngựa con cũng sẽ có xu hướng vươn ra ngoài, e sẽ phải chịu một lực từ cơ thể mẹ đè lại, lúc này nhất định không được kéo quá mạnh, cứ để yên thì tự nhiên nó cũng sẽ bị đẩy ra ngoài, lúc này mới kéo nương theo lực đó mà kéo nhẹ ra ngoài. Ta cũng chỉ biết có vậy, được hay không phải xem ngài dùng lực kéo thế nào.”
Quan Nguyên Hạc nghe vậy hiếm khi nào mở miệng cũng ừm một tiếng, xem như đáp lại lời Tuệ An, ánh mắt vẫn chăm chú nhìn vào Lưu Vân, vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc.
Tuệ An ngồi xổm một bên, nghe y đằng hắng một tiếng quả thật là thụ sủng nhược kinh, ánh mắt bất giác nhìn sang. Vừa nhìn đã không dứt ra được, thấy ánh nắng trên cao chiếu thẳng xuống hai gò má tuấn mỹ của Quan Nguyên Hạc, một bên mặt của y hiện ra cực kỳ rõ ràng trước mắt Tuệ An. Mặt mày như ngọc, khí chất thâm trầm, ngũ quan sắc nét, vì đang chăm chú nhìn mà khẽ mím khóe môi, tất cả như là điêu khắc mà nên, vẻ mặt lạnh lùng chẳng khác nào một bức tượng thần thượng cổ, cảm giác vô cùng sắc bén, vẻ kiên nghị cứng rắn như ẩn như hiện trên khuôn mặt ấy.
Ánh mắt Tuệ An lại dời về phía cánh tay y, ống tay áo đã vén lên nên nhìn thấy càng thêm rõ nét, mạch máu nổi lên theo da thịt tráng kiện màu đồng, tản ra bừng bừng sức sống, dường như ẩn chứa sức mạnh vô hạn. Vì trên tay đã ướt dầu cải, nên càng phát ra màu đồng sáng bóng, xúc cảm mười phần.
Tuệ An nhìn đến ngây người, lúc lâu sau mới ngượng ngùng chuyển mắt, trong lòng oán thầm không thôi. Người này thật sự là tuấn tú muốn mù mắt người ta mà, lại còn có thân hình cao ngất, khiến người và thần đều phải ghen tị, thêm khuôn mặt làm người ta mới nhìn thôi đã sinh ra sợ hãi, nhìn nữa e sẽ bị đóng thành băng cũng không chừng.
Tuệ An nghe Lưu Vân hí lên một tiếng, hai mắt chợt lóe, lúc này mới nhớ tới một việc, vội nói: “Đúng rồi, đợi lát nữa ngài kéo ngựa con ra thì hãy kéo nghiêng sang bên trái một chút.” Thấy Quan Nguyên Hạc nhìn qua, nàng đành yếu ớt nói: “Ta chỉ nhớ mang máng lúc trước mẫu thân cũng làm như vậy, còn vì sao thì ta cũng không được rõ.”
“Vị tiểu thư này nói không sai, kéo chếch sang bên trái có thể khiến cho ngựa con thẳng với trục xương chậu của ngựa mẹ, nếu như là bò sinh sản thì lại phải hơi kéo lên trên, bởi vì trục của xương chậu chính là con đường mà bào thai có thể ra ngoài, kéo ngựa con theo đường thông ra, sẽ khiến cho nó tránh được những bộ phận khác trong cơ thể ngựa mẹ, rất dễ dàng ra ngoài.” Một âm thanh già nua truyền đến, Tuệ An nghiêng đầu nhìn lại, đã thấy một ông lão thân hình cao gầy chòm râu bạc trắng mặc trang phục của quan viên lục phẩm đang bước vào chuồng ngựa.
“Ngưu Giám chính.”
Quan Nguyên Hạc thấy lão đi tới, chỉ ngẩng đầu hơi gật một cái. Tuệ An nghe vậy cũng biết vị này chính là Giám chính đại nhân chuyên môn chăm sóc ngựa cho hoàng tộc. Thấy lão nhìn mình với ánh mắt tán thưởng, Tuệ An liền vội vàng đứng dậy thi lễ. Trong lòng vẫn thầm buồn cười, ông lão gầy gò này rõ ràng là phụ trách việc chăn nuôi cho ngựa, vậy mà lại gọi là Ngưu Giám chính, người không biết có khi còn tưởng là ông nuôi trâu ấy chứ.
Lúc này Lưu Vân lại hí lên, bốn vó co quắp quẫy đạp, Quan Nguyên Hạc sắc mặt ngưng trọng, hai tay khẽ động, cùng lúc Lưu Vân khàn khàn hí lên, cũng vang lên một tiếng ào, một chú ngựa con đen bóng một màu từ trong cơ thể Lưu Vân được kéo ra ngoài.
Tuệ An trợn mắt nhìn ngựa con kia, trong lòng mừng rỡ, lập tức phấn khích nhảy dựng lên.
“Sinh rồi, sinh rồi!” Mọi người vẫn luôn vây quanh chuồng ngựa cũng hoan hô theo, Thu Nhi chạy đến trước mặt Tuệ An ôm lấy tay nàng cười mãi không thôi.
Ngựa con vùng vẫy vài cái trên mặt đất, cứ một lát lại lảo đảo đứng lên, Tuệ An nhìn thấy thì càng vui vẻ, gấp rút chạy lòng vòng quanh nó. Chú nhóc này nhìn qua cực kỳ có sức sống, cái đầu đúng là không nhỏ, một chút cũng chẳng giống như những chú ngựa con mới được sinh ra khác, toàn thân đen bóng một màu, chỉ có cái mũi là điểm một màu trắng.
Nó như biết mọi người đang chăm chú nhìn mình, còn ra vẻ hiên ngang ngẩng đầu một cái, vừa mạnh mẽ kiêu ngạo lại ngây thơ bướng bỉnh, khiến người ta yêu thích không thôi, càng chưa nói đến nhóc con này là do một tay Tuệ An trợ giúp mới có thể sinh nó ra, Tuệ An nghĩ vậy hai mắt sáng lên, thầm nghĩ nếu như mang được nhóc con này về Hầu phủ…Vậy thì không còn gì tốt hơn rồi. Nhóc con này có cha mẹ xuất sắc như vậy, dùng đầu ngón chân suy nghĩ cũng biết sau này nó mà lớn lên nhất định cũng không phải thứ tầm thường! Nhưng mà phải kiếm cớ gì mới có thể mở miệng được đây, nhìn bộ dạng của Quan mặt than là biết không phải người dễ nói chuyện rồi.
Tuệ An bên này nghĩ ngợi lung tung, bên kia Quan Nguyên Hạc đã đứng lên, tránh sang một bên cho Ngưu Giám chính xem xét vết thương của Lưu Vân. Ngưu Giám chính nhìn kỹ một lượt, vuốt râu cười nói: “Ít nhiều cũng phải cám ơn vị tiểu thư này quá, nếu không phải có tiểu thư đây dùng phương pháp kéo thai lôi được ngựa con ra khỏi cơ thể mẹ, sợ rằng lúc này đã mẹ con cùng chết, ngựa này sớm đã chảy hết nước ối. Hiện giờ ngựa mẹ và ngựa con đều rất tốt, đã thoát khỏi nguy hiểm.”
Vệ Mặc thấy Lưu Vân không sao, cũng nói luôn: “Đã chuẩn bị nước nóng xong xuôi, xin thiếu gia hãy tắm rửa qua một chút.” Nàng biết rõ xưa nay Quan Nguyên Hạc vẫn luôn sạch sẽ, thấy y gật đầu đứng lên, vội vàng đem khăn ấm dâng lên, Quan Nguyên Hạc tiện tay lau qua vài cái, quay sang nói với Ngưu Giám chính: “Lưu Vân xin nhờ vào Giám chính.”
Ngưu đại nhân nghe vậy vội cười nói: “Quan tướng quân cứ đi trước, Lưu Vân không ngại, đợi lão hủ bốc cho nó vài thang thuốc điều trị, cho ăn mấy hôm là có thể phục hồi ngay.”
Quan Nguyên Hạc gật nhẹ đầu, không nói hai lời xoay người sải bước mà đi, ngay cả Lăng Phong đang cọ chân vẫy đuôi với y cũng không để ý tới, giống như trên người dính cái gì bẩn lắm vậy.
Bên này Tuệ An vẫn mải mê ngắm nghía chú ngựa con, không ngờ Quan Nguyên Hạc chẳng nói chẳng rằng đã rời khỏi, nàng vội vàng đuổi theo hai bước, khẽ gọi vài tiếng, nhưng người nọ cũng không quay đầu. Mắt thấy bóng hình cao lớn dần biến mất sau cánh cửa, Tuệ An lại nổi lên cơn tức, xùy nhẹ một cái, dậm chân chán chê mới quay người ngắm tiếp ngựa con. Thấy ngựa con đang rúc vào bên cạnh cọ cọ lên đầu mẹ, không hiểu sao Tuệ An giật mình nhớ ra gì đó, lập tức thu lại nụ cười trên môi.
Nàng nhớ kiếp trước Đại Huy cũng gặp một trận dịch ngựa, nhớ rõ kiếp trước vào năm Hồng Đức thứ mười Đại Huy bắt đầu ra quân chinh phạt Bắc Hồ. Bắc Hồ nằm ở phía Bắc của Đại Huy, là dân tộc sinh sống trên thảo nguyên du mục, người Bắc Hồ trời sinh lỗ mãng, chưa được khai hóa, rất nhiều lần đã xâm phạm vào biên cảnh Đại Huy. Nhưng bởi vì Bắc Hồ cũng chỉ vừa mới thống nhất, cho nên chỉ dám gây rối ở vài trấn nhỏ biên cảnh Đại Huy, mặt khác vì Đại Huy vẫn luôn trong vòng khai chiến với Đông Khương quốc, nên không có thời gian bận tâm Bắc Hồ.
Năm Hồng Đức thứ chín Đông Khương quốc diệt vong, lúc này Đại Huy mới tung ra binh lực chinh phạt Bắc Hồ, nhưng Bắc Hồ giờ đã trải qua vài năm gom góp thực lực nên cũng không ngừng lớn mạnh. Ở kiếp trước Đại Huy và Bắc Hồ đánh nhau có thắng có bại, đến năm Hồng Đức thứ mười hai, một năm này, Đại Huy đã xảy ra một trận dịch ngựa vô cùng lớn, trận dịch này cực kỳ đáng sợ, chiến mã trong quân đội tử vong vô số, đầu tiên là một ngày vài con, rồi vài chục con, về sau lan ra thành hơn trăm ngàn con, lại không có biện pháp khống chế.
Chỉ riêng năm Hồng Đức thứ mười hai số lượng chiến mã của Đại Huy đã chết đến mười tám vạn con, điều này cũng khiến cho trận chiến giữa Bắc Hồ với Đại Huy năm Hồng Đức thứ mười hai đã gặp phải thất bại thảm hại chưa từng có, chỉ một năm này mà Đại Huy đã lần lượt thất thủ Bắc quan, hai quận Hàn Quảng. Chiến loạn nơi biên giới phía Bắc khiến cho dân chúng khổ không thể tả, sau khi chiếm được thành Nguyên Dương người Bắc Hồ còn ra tay chém giết cực kỳ thảm khốc. Đáng sợ hơn là trận dịch ngựa này còn phát triển thành ôn dịch lan đến cả con người, mà cũng nhờ vào trận ôn dịch, làm phần đông người Bắc Hồ cũng bị nhiễm bệnh, đại quân bộc phát ôn dịch, nên mới rút lui khỏi Đại Huy trở về thảo nguyên. Thế nhưng Đại Huy cũng vì cuộc ôn dịch này mà dân chúng thương vong rất nặng, nếu không phải năm ấy Giang Nam được mùa bội thu, triều đình trợ cứu thiên tai kịp thời, đã cực kỳ có khả năng trở thành đại họa.
Đó cũng là lúc nàng vừa mới bước chân vào Vương phủ, Tuệ An nhớ rõ khoảng thời gian ấy Lý Vân Sưởng chưa từng thôi nhíu mày, tình cảnh trên triều lại càng âm u. Đúng khi đó nàng gả vào Vương phủ, tâm trạng Lý Vân Sưởng chẳng vui vẻ gì nên nào có nghĩ đến chuyện nữ nhi tình trường, để ý tới một Vương phi mà vốn hắn đã không thích như nàng? Mà nàng lại vì hắn không quan tâm, nóng lòng không thôi, liên tiếp chặn trước thư phòng quấy rối hắn, hoặc trước lúc hắn hồi phủ đứng ở cửa chờ người, khiến cho hắn càng thêm chán ghét. Mà kiếp trước Quan Nguyên Hạc cũng vì là tướng lĩnh dẫn quân chinh phạt Bắc Hồ, đã không may bị lây nhiễm trong trận ôn dịch này, không thể chữa trị kịp thời, về sau tuổi còn trẻ đã tạ thế, vẫn chôn cất tại Đồng Quan.
Chỉ là vào hai năm sau đó, phía nam Liễu Thành cũng bị một trận ôn dịch nhỏ, theo bản tấu của quan viên địa phương trình lên, có đề cập đến việc khi ngựa phát bệnh có triệu chứng giống hệt trận ôn dịch đã khiến cả nước náo loạn năm Hồng Đức thứ mười hai. Nhưng lại có một thú y rất nổi tiếng ở địa phương đã nghiên cứu ra được loại thuốc có thể khắc chế ôn dịch, kịp thời ngăn cản dịch lan rộng. Chỉ tiếc khi Hiền Khang đế phái Lý Vân Sưởng cùng vài vị quan viên đến Liễu Thành tìm thú y kia, thì người nọ đã mất vì bệnh tật, phương pháp trị dịch ngựa cũng bởi vậy mà thất truyền.
Tuệ An còn nhớ năm đó lúc Lý Vân Sưởng được Hiền Khang đế ra lệnh đi tìm thú y kia, nàng còn nghe Lý Vân Sưởng cảm thán qua, nếu lão thú y này còn sống trên đời, năm Hồng Đức thứ mười hai cũng không để ôn dịch hoành hành như vậy, mà cũng sẽ không mất đi một đấng anh hào của Đại Huy ta.
Nay bất chợt nhớ tới chuyện này, trong lòng Tuệ An khẽ nảy lên một cái, nghĩ nếu kiếp này Đại Huy vẫn không thể tránh được trận dịch ngựa, nếu nàng có thể tìm được lão thú y kia trước khi ông qua đời, học được y thuật từ chỗ ông, vậy thì…Tuệ An trong lòng cuồng loạn, đây không phải là cơ hội cho nàng lập công sao! Theo như kiếp trước, trận dịch ngựa bộc phát là vào hai năm sau, lúc đó Thái hậu vẫn khỏe mạnh, nếu như nàng có thể ngăn cản được tai họa này, lại năn nỉ Thái hậu một phen, Hiền Khang đế không lý nào lại không cho nàng thừa kế tước vị!
Tuệ An càng nghĩ càng hưng phấn, thiếu điều hét ầm cả lên, chỉ cảm thấy lớp sương mù cứ quanh quẩn bên người từ khi mình trọng sinh đến nay cuối cùng cũng tiêu tán, trước mắt nàng đã trải dài một con đường rộng lớn thênh thang.
Nhưng lập tức nàng lại nghĩ đến sự kiện Đoan môn mấy hôm trước, đây là chuyện mà ở kiếp trước cũng chưa từng xảy ra, kể cả An Hoa phu nhân kiếp trước cũng sống rất tốt. Vậy thì kiếp này rốt cuộc có hay không sẽ phát sinh trận ôn dịch kia, Quan Nguyên Hạc có thật vẫn sẽ bỏ mình tại Đồng Quan? Tất cả mọi chuyện đều là ẩn số, Tuệ An nghĩ vậy lại do dự một hồi.
“Cô nương, cô nương? Tần vương điện hạ đang nói chuyện cùng người kìa. Cô nương!”
Tuệ An nghĩ đến xuất thần, bị Thu Nhi lay lay cánh tay, giật mình đã thấy Lý Vân Sưởng đang mỉm cười đứng ở trước mắt, vẻ mặt buồn cười nhìn chằm chằm vào mình, đôi mắt trong trẻo còn thoáng mang theo thần thái bất đắc dĩ.