Một Hồ Sen Xanh Đợi Trăng Lên

Chương 1: Nam nhạc yên hà có kỳ tú




TIẾT TỬ – ĐÊM TỐI LỬA CHÁY RỰC ĐẤT TRỜI

Gió bắc lạnh thấu xương, từ sáng sớm đã bắt đầu rít gào, cả rừng cây héo úa. Đằng xa, mây đen mù mịt, từ từ tích tụ không ngừng, giăng kín cả bầu trời.

Ở rặng núi xa xa thấp thoáng một miếu thờ, tiếng chuông mơ mơ hồ hồ vang vọng, trong không khí tĩnh lặng đến nghẹt thở, như phảng phất thêm vài phần mênh mang mịt mờ.

Cách ngôi chùa ấy không xa là một rừng tùng rậm rạp. Bấy giờ, trong rừng có một căn phòng nhỏ đóng cửa kín mít. Trong căn phòng tối mù kia, bà vú già sốt ruột đứng bên cạnh, nhìn cô gái đang nằm trên giường. Cô ta đang có thai, hiện nằm nghiêng người, trán và gáy mướt đẫm mồ hô, tóc tai tán loạn bết vào má, tay bám chặt mép giường, ráng chịu đựng không rên một tiếng nào.

“Tiểu thư, cứ vậy sẽ có chuyện mất! Tôi xin cô, xin cô để tôi đi tìm thầy thuốc tới đi mà!” Vú già vừa nói vừa run rẩy nắm lấy bàn tay lạnh băng của cô gái kia.

Cô ta cắn chặt răng, ngẩng đầu nói: “Nếu bà đi tìm người, tôi sẽ tự sát ngay tại trước mặt bà!”

Vú già kinh hoảng quỳ sụp xuống đất, “Vậy thì vú thật sự không biết làm sao hết… Tiểu thư, chỉ cần tôi không nói thì thầy thuốc sẽ không biết lai lịch của chúng ta đâu.”

“Sẽ không… sẽ không…” Cô gái đau đớn đè bụng mình lại, trên mu bàn tay nổi đầy gân xanh, mặt trắng bệch như tờ giấy, “Không phải tôi đã uống chén thuốc phá thai đó một lần rồi hay sao? Lát nữa sinh ra, nhất định sẽ là thai chết… Bà, chỉ cần bà dám đánh liều đem chôn, từ nay về sau, chúng ta sẽ không còn phiền não gì nữa…”

Cô ta nói tới đây, bỗng dưng cắn chặt răng, cả người run rẩy không ngừng.

“Tiểu thư! Tiểu thư!” Vú già sợ quá, nắm cổ tay cô hốt hoảng kêu gào.

“Không được kêu!” Giọng nói của cô khàn khàn, dù đang vật vã vẫn không quên dặn đi dặn lại, “Nhất định, nhất định không được kêu!”

***

Tiếng gió rít gào, cơn rét buốt bị đè nén một ngày nay đến cực hạn, bông tuyết bay bay trên nền trời xám xịt, từng mảng, từng mảng, quấy nhiễu đất trời.

Trong căn phòng nhỏ, cô gái nhét vải trắng vào miệng, cố chịu cơn đau, mấy đốt ngón tay bám chặt vào thành giường tạo thành mấy vệt trăng trắng.

Vú già khiếp sợ ngồi xổm bên mép giường, đã lấy hết những thứ cần chuẩn bị, thấy cô đang giãy giụa trên giường mà không thể kêu gào la đau, rất không đành lòng.

Ngoài phòng, gió rét càng lúc càng dữ dội, tuyết thổi qua khe cửa, từ từ tan ra trước giường. Quần áo cô gái nọ đã thấm ướt mồ hôi, thế nhưng đứa bé vẫn chưa ra đời. Vú già càng lúc càng hốt hoảng, chắp tay thành chữ thập, không ngừng cầu khấn ông trời.

— Thật sự nếu không được nữa thì chạy qua cầu cứu am ni cô bên kia, chắc chắn người xuất gia sẽ không thấy chết mà không cứu…

Vú già thầm nhủ trong bụng, nhưng không dám nói gì trước mặt cô gái kia.

Thế mà ngay lúc này, cô gái bất ngờ khàn giọng rên lên, vú già vừa mừng vừa sợ, nói: “Tiểu thư, sắp ra rồi!”



Cũng không biết đã bao lâu, cơn đau đến tê tâm liệt phế này cuối cùng cũng dần chuyển biến tốt đẹp, cô gái dùng bao sức lực còn lại vươn tay ra, gắng hỏi: “Thế nào?”

Vú già xé một miếng vải bố, bọc lấy đứa bé mới sinh. Đứa bé kia rất ốm yếu, hai mắt nhắm nghiền, trông như đã chết. Nhưng khi nhìn kĩ, thấy hai cánh tay nhỏ xíu vẫn còn khẽ run, cô ta cảm thấy chấn động, không cầm được mà dùng sức vỗ vào lưng bé con.

Nháy mắt, tiếng khóc oa oa vang vọng khắp căn phòng tối mịt.

Ngay lập tức, khuôn mặt cô gái kia xám ngoét như tro, như phát điên mà vùng dậy, quát: “Vì sao không chết?! Vì sao nó không chết?!”

Đứa bé vẫn còn thấp giọng khóc nỉ non, bà vú già ôm nó thật chặt, run rẩy thưa: “Tiểu thư, có lẽ mệnh đứa bé này chớ nên tuyệt…”

“Đã hai lần uống thuốc phá thai, sao có thể không chết?!” Cô gái kêu đến lạc giọng, bỗng nhiên đưa tay về phía đứa trẻ, “Mau đưa đứa bé đến cho tôi!”

“Tiểu thư, cô muốn làm gì?!” Vú già thấy bộ dạng điên cuồng của cô, hoảng sợ đứng dậy.

“Trân nương, thuốc phá thai kia là bà lấy cho tôi, bà nói xem, có phải bà đã động tay động chân gì không?!” Cô gái thấy mình không bắt được đứa trẻ, hung dữ nhìn vú già chằm chằm.

Vú già sợ đến thụt lùi một bước về sau, bất ngờ quỳ xuống dập đầu thưa: “Tiểu thư, sau khi dùng thuốc lần đầu tiên cô đau đớn đến không chịu được, nhưng vẫn không thể phá thai. Sau đó cô bảo tôi mang thuốc tới lần nữa, tôi thật sự không dám cho tiếp. Nếu mà vậy, chỉ sợ mạng của cô cũng khó giữ. Thế nên tôi đã cả gan đổi một ít vị thuốc…”

“Bà là đồ khốn nạn!” Cô gái thét một tiếng chói tai, tát vú già, sau đó vơ lấy bao bố, muốn giằng đứa bé vào lòng mình.

Vú già ôm chặt bé con, khóc không ra tiếng: “Tiểu thư, tiểu thư, cô thật sự muốn giết đứa bé này bằng được hay sao?”

“Bà cút ngay cho tôi!” Cô gái càng dùng sức nhào về phía bà. Lúc này, bỗng nghe có người gõ cửa liên tục, thấp giọng bảo: “Là ta, mau mở cửa.”

Cô gái ngẩng ra, trừng mắt nhìn bà vú: “Mau đi mở cửa!”

Vú già nơm nớp ôm bé con đi mở cửa, cánh cửa gỗ vừa mở phân nửa, trong gió tuyết trắng xóa, bất ngờ lóe lên thân ảnh, một người đàn ông vội vàng bước vào.

Hắn thấy đứa bé vú già đang ôm trong lòng, không khỏi cả kinh, vội vàng đưa tay ra sau để cài then cửa, giậm chân hỏi: “Đây là gì?! Không phải em đã uống thuốc rồi sao?”

“Là bà ta đã đổi vị trong chén thuốc lần thứ hai của em!” Khuôn mặt cô gái trắng bệch, chỉ vào vú già.

“Bà!” Gã đàn ông giận dữ nhìn vú già, đẩy mạnh bà rồi cướp lấy đứa bé vẫn đang khóc oa oa, nhìn thoáng qua, bỗng dưng nhắm chặt hai mắt, lẩm bẩm, “Chớ trách ta nhẫn tâm, mày thật sự không nên tới cõi đời này!” Dứt lời, vung tay lên, nhắm vào cái cổ nhỏ xíu của đứa bé.

“Trời ơi!” Vú già nhìn cảnh tượng mà kinh hoảng, nhào tới giữ ống tay của người đàn ông kia, run rẩy nói: “Đừng làm vậy! Nếu các người không muốn đứa nhỏ này, vú có thể mang nó về quê cũ coi như con đẻ, tuyệt đối không để cho bất kì người bên cạnh nào hay biết!”

Người đàn ông trách mắng: “Lòng dạ đàn bà! Chuyện này không có liên quan gì tới bà, còn dám lắm lời thì coi chừng cái mạng của mình!” Đang nói, hắn âm thầm vận lực, khiến cổ tay của vú già run lên, rồi lại muốn tiếp tục bóp chết đứa bé kia.

Tựa như đứa bé cảm nhận được gì, khóc mãi không dứt. Vú già ngã bệt xuống đất nhưng vẫn nắm chặt vạt áo của hắn mãi. Bất ngờ có tiếng động vang lên ngoài cửa gỗ, một cơn gió mạnh vừa thốc vào, người đàn ông giật mình, theo bản năng quay đầu lại, thì ra là gió thổi khiến cửa mở ra.

Nhưng ngay trong lúc đó, có tiếng thét kinh hãi từ ngoài truyền vào khiến những người trong nhà hoảng sợ.

Cô gái trên giường vội vàng lấy vải che mặt lại, người đàn ông kia tập trung nhìn ra ngoài, bất ngờ thấy một ni cô trẻ cầm dù trong tay, run rẩy đứng ngoài cửa.

Ni cô nhìn hắn, như thể đang nhớ điều gì, bỗng dưng sực tỉnh mà nói: “Thì ra là…”

Cô ta còn chưa nói xong thì người đàn ông vẫn còn đang ôm đứa nhỏ trong ngực lao ra khỏi phòng, ống tay áo rung lên, dồn nội lực đánh vào mặt ni cô. Vị ni cô kia đang không phòng bị thì hắn bất ngờ ra tay, trong tình thế cấp bách, cổ tay khẽ động, cây dù đang khép chặt bất ngờ bật lên, hạt tuyết trên dù bay túa ra. Vừa dùng dù che, vừa ngăn cản đòn tấn công của người đàn ông.

“Bần ni và thí chủ không thù không oán, vì sao thí chủ lại hạ chiêu độc như vậy?!” Tuy ni cô đã chặn được một chiêu nhưng vẫn bị nội lực của người đàn ông kia đẩy lùi về sau.

Lông mày của hắn xoăn tít lại, mắt lộ tia ác độc, không nói lời nào tiếp tục nhằm thẳng vào cô. Nhưng đứa bé trong lồng ngực cứ không ngừng kêu khóc, khiến hắn bị xao động, sợ tiếng khóc kéo thêm nhiều người tới, đành phải quay đầu quát: “Đón lấy.” Rồi ném đứa bé về phía bà vú già đang trốn sau cạnh cửa.

Dù ni cô không biết rằng rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng thấy người đàn ông cứ liên tục tấn công mình, chẳng thấy chút phong phạm nào của ngày trước. Cô gắng gượng tiếp mấy chiêu thì đã cảm thấy không thể chống đỡ, thừa dịp người đàn ông chưa chuẩn bị, ra hư chiêu, bứt người lao về am ni cô trên núi. Người đàn ông vén tà áo dưới, phi người đạp lên đỉnh đầu của cô. Trước khi chưa đáp xuống, quấn tay áo lại, chưởng phong như đao, nhắm về phía cổ họng của ni cô.

Ni cô kia chập hai tay, muốn cản lực chưởng của hắn, nhưng nào có thể chống được nội công thâm hậu của người đàn ông kia, chỉ thấy cổ tay tê rần, mất lực. Người đàn ông thừa cơ bắt lấy, hai ngón tay phải co lại, khẽ móc tới, khóa được cổ họng cô.

“Đắc tội!” Hắn thấp giọng thở dài, tay dùng dức, ni cô chỉ giãy dụa mấy cái rồi buông người mềm nhũn ngã dưới chân.

Lúc này đêm bắt đầu lui bước, tuyết trắng bay tán loạn, trong núi cũng không có bóng dáng kẻ nào khác. Sau khi kéo thi thể ni cô vào rừng, người đàn ông kia vội vàng xoay người chạy về căn phòng ban nãy, vừa vào cửa đã thấy khuôn mặt kinh hoảng của cô gái đang ngồi trên giường.

“Đuổi theo Trân nương mau!” Cô thấy hắn quay lại, như thể tìm được cọng cỏ cứu mạng.

Người đàn ông ngẩn ra, lúc này mới phát hiện chằng ngờ bà vú già kia đã không còn ở trong phòng.

“Đứa bé đâu?” Hắn hít một khí lạnh.

Cô gái ngồi sững trên giường, nói: “Tranh thủ em và chàng chưa chuẩn bị, bà ta ôm đứa bé chạy về hướng sau núi rồi!”

“Đáng chết!” Hàm lông mày rậm của hắn nhăn lại, rủa một câu rồi lập tức bỏ ra khỏi phòng đuổi theo, đến cửa, bỗng dưng dừng bước, “Nàng phải tự cẩn thận, ni cô kia đã bị ta giết, ném ở trong rừng. Chờ ta về rồi xử lí.” Lời chưa nói dứt, hắn đã chạy biến, đuổi về hướng sau núi.

***

Màn đêm mùi mịt, đường núi ngập ghềnh. Trong bầu trời đầy gió tuyết, Trân nương ôm đứa bé lảo đảo chạy lên sườn núi, trên mặt trên tay đều là nước bùn.

Cách đó không xa, hình như có tiếng bước chân dồn dập hướng gần về phía này.

Đứa bé lúc đầu vẫn còn khóc nức nở nay đã bị lạnh đến mức hấp hối, đôi mày nho nhỏ nhíu chặt, thân thể chỉ còn chút ấm áp khẽ run rẩy.

Phía trước là vách núi dựng đứng, Trân nương không còn đường đi, định xoay người chạy về phía bên kia thì đột nhiên hoa mắt. Người đàn ông đã lướt qua cây đại thụ cao ngút, nhảy xuống trước mặt.

“Đưa ta.” Sắc mặt người đàn ông tái xanh, nhắm thẳng về phía bà.

Trân nương run rẩy lùi về sau một bước, cầu xin: “Vú sẽ mang đứa nhỏ đi, sẽ không thêm phiền cho các người đâu… Chỉ mong các người đừng làm chuyện nghiệp chướng vậy mà…”

“Đưa ta!” Hắn cắn chặt hàm răng, tựa như trong mắt sắp phát ra tia lửa.

“Đây cũng là con ruột của ngài cơ mà!” Bỗng Trân nương quỳ sụp xuống nền tuyết ướt lạnh, ngửa đầu gào lên với người đàn ông.

Khuôn mặt người đàn ông kia thoáng run rẩy, thấy đứa trẻ trong lòng bà bị giật mình, không khỏi thở dài một tiếng, nhắm mắt lại, bay tới đá một cước vào Trân nương.

Trân nương chỉ phát ra một tiếng hét thảm, uổng công tay trái nhắm về trước hòng muốn bám vào hông hắn, tiếc là người không chịu khống chế, cùng đứa bé con bị hắn tàn nhẫn đá văng vào vách núi.

Trong bóng tối, áo bà tung bay, như con diều mất dây, rơi thẳng xuống đáy vực hun hút.

Gió núi rít gào, người đàn ông đứng trước vực mà thoáng rùng mình, đang muốn quay đầu thì ngửi thấy mùi khói lửa. Hắn vội vàng chạy lên dãy núi, tới khi nhìn lại, chỉ thấy cả mảnh rừng lửa cháy hừng hực, từ căn phòng nhỏ kia lan san am ni cô trong rừng.

Màn đêm tĩnh mịch, cơn tuyết lớn đã dừng, ngọn lửa nhảy múa không ngớt, nhuộm đỏ cả một vùng núi rừng thanh tịnh, như con rắn độc điên cuồng, cắn nuốt cả đất trời.

Hành Sơn thăm thẳm vào tử minh, mắt nhìn nam cực lão thọ tinh. Tiếng tiêu thổi tan tuyết năm núi, hoa bụi bay bay hồ Động Đình…’ (*thơ Lý Bạch, tạm dịch)

Nam Nhạc Hành Sơn có bảy mươi hai ngọn núi xuyên thẳng tầng mây, có lạ kì có hiểm trở, dáng núi khác nhau. Từ xưa, đây là nơi phật đạo tu hành, lại còn có một sơn cốc cô lập thanh u, mây trắng suối xanh, tạo nên một phong cảnh tuyệt đẹp.

Núi Chúc Dung cao nhất trong bảy mươi hai ngọn, vách núi dựng đứng cao ngàn thước, từng tảng đá hình dáng lạ kì xếp chồng lên nhau, mây che đỉnh núi lúc ẩn lúc hiện, dưới đèo có con sông Tương, hắt sáng trông rất bắt mắt. Không chỉ vậy, các đệ tử của Hành Sơn kiếm phái thường trèo lên đỉnh Chúc Dung để luyện võ, bóng kiếm lóa mắt, tà áo tung bay, những thứ này giúp tăng vài phần tiên ý.

Nay đương xuân về hoa nở, trên đường núi, có một thiếu niên đang gánh hai giỏ lớn, bên trong đựng mấy thứ linh tinh như củi gạo muối dầu. Cậu thiếu niên này dáng người thấp bé, vì gánh nặng nên bước đi hơi lảo đảo, theo sau là hai người đàn ông hơi lớn tuổi hơn, một cưỡi ngựa một dắt cương, bước chầm chậm có vẻ không được tự nhiên.

Trước mặt là con đường lên núi cao chót vót, cậu thiếu niên cố sức ngẩng đầu lên nhìn, quay lại hỏi: “Hai vị sư huynh, có thể cho tôi nghỉ một chút rồi đi tiếp được không?”

Người đang cưỡi ngựa khoảng trên dưới ba mươi, khuôn mặt thon gầy, mắt mày dài hẹp, nghe thiếu niên nói vậy, chỉ lắc lắc đầu. Còn tay đang dắt ngựa cho anh ta thì có vẻ trẻ hơn, vóc người khá cường tráng, thấy cậu thiếu niên muốn nghỉ chân thì lập tức cau mày: “Thụ An, mày thua cuộc rồi thì không được lề mề, cả con đường này đã nghỉ ngơi bao nhiêu lần rồi? Cứ ì à ì ạch thế này nữa thì phải đi tới khi nào?”

Cậu thiếu niên Thụ An khẽ cắn môi, cúi đầu đi tiếp. Không ngờ vì quá mệt, lúc leo dốc bị trượt chân, người té sấp về trước.

“Cẩn thận!” Hai người phía sau không hẹn mà la lên, tiếc là đã muộn. Thụ An bị té, mọi thứ trong sọt đều bị văng ra. Mì rơi đầy đất, có mấy bọc giấy lăn xuống khe núi, hiển nhiên là không thể lấy lại được.

Tay dắt ngực giậm chân tức tối, đi tới xách lấy Thụ An vẫn chưa kịp ngồi dậy.

“Mày cố ý đấy phải không?! Vất vả lắm mới sắp tới nơi mà bây giờ bị mày biến thành thế này!’

Trên mặt Thụ An lấm lem đất cát, đầy vẻ sợ hãi, cúi đầu xin lỗi mãi: “Thẩm sư huynh, tôi không cố ý thật mà…”

“Vậy bây giờ mày tính làm sao?!” Tay họ Thẩm tức tối đẩy cậu ta, vẻ mặt cực kì không kiên nhẫn.

Tay chân Thụ An luống cuống, vốc đống gạo vương vãi trên đất lên, người đàn ông cưỡi ngựa nhảy xuống, lắc đầu nói: “Đã dính đất cát thế rồi, sao ăn được nữa?!”

“Chu sư huynh, tôi…” Thụ An không biết nên nói thế nào cho phải.

“Tôi cái gì mà tôi?! Tao thấy, mày lo nhanh chân chạy xuống trấn lần nữa đi!” Gã họ Thẩm khoanh tay, thờ ơ lạnh nhạt.

Thụ An há hốc, muốn cãi lại nhưng không dám. Đúng lúc này, trên con đường mòn nho nhỏ ở trong rừng, cách đó không xa, có người khẽ hừ một tiếng, nói: “Có gì đâu, cứ gánh tới nơi rồi rửa cho sạch là ăn được thôi! Thường ngày tôi nào thấy hai anh cẩn thận như vậy, hôm nay làm hùm làm hổ ghê nhỉ!”

Thụ An nghe giọng nói ấy, khuôn mặt vốn đang rầu rĩ ủ ê thì bỗng nhiên có vẻ tươi sáng hẳn lên, hướng về phía kia gọi lớn: “Chị Hạo Nguyệt!”

Trong khu rừng biếc, tiếng vó ngựa dồn. Một con ngựa hung tung vó chạy tới, thiếu nữ trên lưng ngựa mặc áo màu vàng nhạt, thắt lưng bằng tơ tằm màu trắng buông rũ. Nước da trắng nõn, gò má ửng hồng, đôi mắt trong suốt sáng ngời, nhìn chằm chằm vào hai người kia mãi.

Con ngựa hung còn chưa dừng chân, thiếu nữ đã một tay chống yên, tung người nhảy xuống, giật cương một cái, nói: “Thụ An, cậu lại bị bọn họ bắt nạt nữa à!”

Thụ An còn chưa kịp mở miệng thì người được gọi là Thẩm sư huynh đã có vẻ không vừa ý, tiến lên một bước nói: “Thì ra là Lam đại tiểu thư đã về, sao vừa gặp đã không khách khí như vậy? Dù gì chúng ta cũng là đồng môn…”

“Chính các người rất không khách khí với Thụ An thì có!” Thiếu nữ cắt ngang lời anh ta, liếc hai người, “Đừng tưởng tôi không biết, thấy cậu ấy hiền lành, cứ nhắm vào, hùa nhau bắt nạt mãi.”

Chu sư huynh, người từ ban nãy đến giờ vẫn không nói lời nào không khỏi cười bảo: “Đại tiểu thư nói chuyện chẳng nể nang ai. Ngày thường sư huynh đệ chúng tôi đùa giỡn chút thôi, nào có bắt nạt gì?” Nói xong, anh ta quay đầu vỗ vào Thụ An, ôn hòa nói: “Thụ An đánh cuộc với chúng tôi rồi thua, thế nên tình nguyện thay chúng tôi lên trấn trên mua gạo về, đúng không?”

Thụ An cười lúng túng, quay qua thiếu nữ thưa: “Đúng là vì em thua cuộc bọn họ ấy mà. Chị Hạo Nguyệt, em khỏe mạnh, đi được.” Cậu lại hốt mấy thứ trên đất vào sọt trúc, lại gánh lên.

Thiếu nữ thấy cậu còn có vẻ muốn tiếp tục leo núi, không kiềm được mà nói: “Thụ An, nếu cậu không chịu nổi thì tôi sẽ về núi gọi người tới đón.”

“Không cần đâu.” Thụ An cười thẹn thùng, tiếp tục loạng choạng hướng núi Chúc Dung mà bước.

Gã họ Chu kia nhìn thiếu nữ vuốt cằm, cũng không nói gì nữa, leo ngựa theo sau Thụ An. Tay còn lại thì có vẻ không vui, liếc nàng mấy lần rồi mới không cam tâm tình nguyện mà rời khỏi.

“Hừ, toàn bắt nạt kẻ yếu!” Thiếu nữ lầm bầm, xoay người lên ngựa, cũng nhắm về sau núi Chúc Dung.

***

Sau lưng ngọn núi cao và hiểm trở kia, có một sơn cốc tĩnh lặng, đẹp như tiên cảnh, gọi là Yên Hà cốc. Dù nơi này cũng thuộc về Hành Sơn, nhưng do hẻo lánh, xưa nay hiếm có người ngoài. Chủ điện của phái Hành Sơn được đặt trên núi Chúc Dung, chưởng môn Vạn Thuần Đạt và các đệ tử đều ở núi này. Trên đỉnh Phù Dung cao nhất, chỉ có sư huynh của Vạn Thuần Đạt, Lam Bách Thần, đưa mọi người tới định cư ở thung lũng Yên Hà. Trong cốc không có nhiều người, chỉ chừng mười mấy đệ tử của Lam Bách Thần cùng một số tôi tớ. Nếu không có việc gì quan trọng, bọn họ sẽ chẳng lên núi Chúc Dung làm gì, chỉ một mực luyện kiếm tu hành ở đây.

Mà thiếu nữ này là cô con gái duy nhất của Lam Bách Thần, tên là Hạo Nguyệt. Chạy đến Tương Dương, ở đấy hơn hai tháng rồi mới trở về, không ngờ vừa tới chân núi Hành Sơn thì gặp đệ tử của Vạn Thuần Đạt. Trước nay nàng vốn không thích qua lại với bọn họ, thấy bọn họ lúc nào cũng bắt nạt Thụ An, không nhịn được chỉ trích vài câu, sau đó cũng chẳng để trong lòng.

Lam Hạo Nguyệt đi thẳng một đường, bỗng nghe thấy tiếng binh khí giao đấu từ xa truyền tới, đi được một chút nữa thì thấy trong rừng trúc phía trước, có vài thiếu nam thiếu nữ đang tụm lại thành nhóm để luyện kiếm. Tuy các chiêu thức vẫn chưa quá thành thục nhưng cũng đâu ra đấy hẳn hoi. Một người trong số đó thấy nàng đã về, liền dừng lại gọi lớn: “Sư tỷ về rồi!”

Ngay lập tức mọi người đều vây lại, hỏi thăm nàng mãi. Lam Hạo Nguyệt bị bao vây, bận tíu tít, nụ cười có hai má lúm đồng tiền càng thêm vẻ ngọt ngào.

“Chuyến này sư tỷ đi hơn hai tháng rồi nhỉ? Ở Tương Dương chơi vui thế à?”

“Chị mau nói đi, kiếm pháp của những môn phái khác có lợi hại thế không? So với Hành Sơn chúng ta thì ai cao ai thấp?”

Lam Hạo Nguyệt vỗ vào vai người vừa đặt câu hỏi kia, nhăn mặt nhíu mày bảo: “Sao cậu giống y cha tôi vậy, suốt ngày chỉ biết mỗi kiếm với chả pháp!”

Cậu thiếu niên kia cười, giương kiếm, có vẻ đắc ý mà đáp: “Sư phụ từng nói, kẻ luyện kiếm phải luôn nhớ kĩ bổn phận của mình trong lòng từng giây từng phút.”

Vốn Lam Hạo Nguyệt đang có vẻ rất vui, thoáng cái bỗng trầm xuống, khẽ mím môi, nhìn xung quanh, giả vờ lơ đãng hỏi: “Cha tôi không có ở đây à?”

“Mấy ngày nay sư phụ cứ thảo luận kiếm thuật với cái vị Thiệu công tử của Ấn Khê Tiểu Trúc mãi.” Một người khác cướp lời, “Chả để ý dạy dỗ gì bọn em cả.”

“Ấn Khê Tiểu Trúc?” Lông mày Lam Hạo Nguyệt khẽ nhướng lên, tỏ ra rất ngạc nhiên, “Chỗ này cách chúng ta xa lắm! Là bạn cũ mà cha đã quen từ trước sao?”

Thiếu nam thiếu nữ chung quanh kể cho nàng nghe, sư phụ đi Lư Châu một chuyến thì mang người này về. Ban đầu nhìn vị công tử kia cứ có vẻ rầu rĩ, nhưng sau khi đến Hành Sơn được sư phụ chỉ điểm, cũng dần thoải mái vui vẻ hơn. Tuy hai người tuổi tác chênh lệch nhiều, nhưng lại có thể nâng chén tâm tình, trở thành tri kỷ.

Lam Hạo Nguyệt chẳng có vẻ hứng thú với chuyện này lắm, nghe thế thôi. Cha không ở trong cốc, trái lại nàng còn cảm thấy thoải mái, lập tức giao ngựa cho kẻ hầu, tự mình tiến ra sau rừng trúc.

***

Sâu thẳm trúc biếc, ngói lớn tường vôi, trên con đường mòn rải sỏi trước sân có mấy con chim lông xanh mỏ đỏ đang nhảy nhót qua lại, như lũ trẻ nít đang nô đùa. Lam Hạo Nguyệt thấy đàn chim nhỏ này, ngay lập tức nhẹ bước chân. Đàn chim non vốn đang vỗ cánh phành phạch bay lên ngọn trúc, đụng cành lá biếc rồi lại bay về thì chợt nghe tiếng tiêu lanh lảnh vang lên tự không trung, thì ra là cây tiêu trúc Lam Hạo Nguyệt luôn mang theo bên người.

Đàn chim sẻ nghịch ngợm ở tầng lá một hồi thì bay ào ào ra khỏi rừng trúc, rối rít bay nhảy bên người Lam Hạo Nguyệt. Dưới ánh mặt trời, những sợi lông vũ dài lấp lánh như cầu vồng.

Đôi mắt như vầng trăng non của Lam Hạo Nguyệt tràn ngập ý cười, nàng vừa thổi tiêu vừa dẫn đàn chim sẻ vào trong viện. Bỗng không ngờ từ sau có người cười ha hả, khiến đàn chim sẻ sắp sà vào sân giật mình bay tán loạn.

“Ai đó?!” Lam Hạo Nguyệt rất không vui, xoay lại thì thấy một người đang thong thả bước xuống từ sườn núi. Người này vóc nhỏ gầy, mặc loại áo ngắn, tay áo bó ở cổ tay, hông đeo Trường kiếm, cặp mắt xảo quyệt.

Lam Hạo Nguyệt giận tái mặt: “Triệu Thời Anh, sao anh lại cứ lén lén lút lút thế? Không vào cửa chính, từ đâu chạy tới Yên Hà cốc của chúng tôi!”

Triệu Thời Anh chắp tay sau lưng đi xuống, nhìn đàn chim đang kêu chiêm chiếp bên kia, cười đáp: “Lam sư muội, cớ gì mà lại nhăn nhó mặt xinh cả ngày vậy? Tuy bình thường vốn ở trên đỉnh Chúc Dung, nhưng dù sao thì chúng ta cũng là đồng môn, tôi đến đây làm khách mà cũng không được sao?”

Lam Hạo Nguyệt nghiêng người liếc hắn một cái, nói: “Cha tôi không ở đây, anh tới tìm ai?”

“Ơ kìa, chẳng lẽ tôi đây là sư huynh mà không thể tới tìm em luyện kiếm chuyện trò một chút được à?” Triệu Thời Anh vòng qua bụi trúc rồi bước tới, quan sát nàng một phen, nụ cười trên mặt vẫn không hề thay đổi: “Phải nói chứ, Hạo Nguyệt sư muội à, lâu rồi không gặp, em ngày càng đẹp ra.”

Lam Hạo Nguyệt cố dằn cơn tức trong lòng, xoay lưng lại bảo: “Triệu sư huynh, tôi vừa trở về từ Tương Dương, đang rất mệt, không tiện tiếp đón. Nếu anh muốn nói chuyện phiếm, mời hôm khác lại đến.”

Triệu Thời Anh đưa tay vuốt cằm, cau mày nói: “Sư muội, không phải vì em đã có người trong lòng nên lạnh nhạt với tôi đấy chứ?”

“Anh đừng nói nhảm! Tôi có người trong lòng lúc nào?” Lam Hạo Nguyệt đỏ mặt, quát hắn.

“Em đừng xấu hổ…” Triệu Thời Anh tiến đến, hạ người thấp giọng cười bảo: “Nghe nói Lam sư bá đến Lư Châu mang Thiệu Dương của Ấn Khê Tiểu Trúc về đây. Tuy rằng người này hơi lón tuổi hơn em nhưng dù sao cũng được coi là đời sau của danh môn. Chẳng bao lâu nữa, xem chừng em sẽ được gả tới Lư Châu thôi!”

Lam Hạo Nguyệt giật mình, vội la lên: “Anh nghe ai nói?! Sao cha lại gả tôi tới Lư Châu?!”

Triệu Thời Anh thở dài: “Mọi người trên núi Chúc Dung đều biết cả, chỉ gạt mỗi em thôi. Sư muội à, con gái lớn không giữ được, em lại không chịu rời khỏi Hành Sơn, sớm muộn gì cũng phải gả…” Hắn thấy vẻ mặt Lam Hạo Nguyệt dần trở nên ngưng trọng, không nhịn được mà thấp giọng, “Thôi thì nếu muội không thích đến Lư Châu, tôi có thể đánh tiếng với Lam sư bá, hai chúng ta…”

Trong đầu Lam Hạo Nguyệt đang rất rối, thấy hắn ngày càng tiến tới gần mình, theo bản năng đẩy ra, lùi về sau la lớn: “Anh muốn làm gì?”

Triệu Thời Anh không vui, chỉnh sửa lại quần áo rồi nói: “Tôi cũng chỉ có lòng tốt thôi, dù sao tính tình Lam sư bá thế nào, em hiểu rõ nhất. Nếu ông ấy chọn cái tay ở Ấn Khê Tiểu Trúc kia rồi thì dù em nói thế nào cũng không được đâu.”

Lam Hạo Nguyệt mím môi, mãi một lúc sau mới kiên quyết đáp: “Tôi cũng không tin ông ấy có thể ép buộc nhét tôi vào kiệu hoa!”

Triệu Thời Anh thấy nàng đã tức giận, bỡn cợt vài câu rồi bỏ đi.

Lam Hạo Nguyệt bị những lời nói của hắn ta khiến tâm tình không yên, tức tối trở về phòng. Nhìn mây trắng lững lờ ngoài cửa sổ, nghĩ tới cha mình trước đây luôn quyết định độc đoán, không cho nàng chút quyền tự chủ nào, không khỏi oán thán. Khi nàng rời khỏi Yên Hà cốc đến Tương Dương, cũng vì một việc nhỏ mà cãi nhau với cha. Hai người không ai nhường ai, chiến tranh lạnh ròng rã suốt mười ngày trời, trong cơn tức giận nàng liền bỏ nhà ra đi. Vừa về lại Hành Sơn thì gặp chuyện như vậy, sao không phiền muộn lo lắng cho được?

Nằm trên giường trằn trọc chẳng yên, nghe thấy có người đi vào cửa viện, ngồi dậy nhìn, thì ra là thị nữ Phấn Điệp. Nàng vội vàng gọi cô ta vào, muốn hỏi xem thật có chuyện này hay không.

Phấn Điệp cũng thắc mắc thưa: “Chúng em chưa từng nghe nói tới bao giờ… Có điều, quả thật chủ nhân đối xử với vị Thiệu công tử kia rất tốt.”

Lam Hạo Nguyệt ngồi đờ đẫn ở đầu giường, Phấn Điệp lại bảo: “Tiểu thư nên mau chóng rửa mặt chải đầu chút đi, buổi tối chủ nhân và Thiệu công tử sẽ về đấy. Mấy hôm trước ngài nghe nói cô sắp về, liền gọi đầu bếp từ trong thành đến, bảo muốn bày tiệc rượu trong vườn hoa, để cô được gặp Thiệu công tử.”

Lam Hạo Nguyệt ngỡ ngàng ngẩng đầu lên, Phấn Điệp hoảng sợ thụt lùi về sau một bước, nhỏ giọng thưa: “Em lại lỡ lời, tiểu thư đừng trách. Vốn chủ nhân cũng không muốn để cho cô biết ý định lần này của ngài.”

Dứt lời, không đợi Lam Hạo Nguyệt đáp lại, liền chạy ra khỏi phòng.

Có Phấn Điệp, Lam Hạo Nguyệt càng tin thật về những gì Triệu Thời Anh vừa nói. Xem ra quả là cha muốn gả nàng cho cái vị Thiệu công tử chưa gặp bao giờ thật rồi. Từ nhỏ đến lớn Lam Hạo Nguyệt luôn bị cha quản rất nghiêm, không cho nàng mảy may có ý kiến phản đối. Nay không ngờ đang ngơ ngơ ngác ngác bị gả tới Lư Châu cách xa ngàn dặm, tâm tình muốn giảng hòa cùng cha, nhất thời tan thành mây khói, chẳng thấy tung tích.

***

Thấy trời sập tối, ngoài rừng trúc, từng ngọn đèn hoa được treo lên, lập lòe ánh sáng u u trong buổi hoàng hôn ảm đạm. Các sư huynh đệ cười đùa không ngớt, nghĩ tới việc sắp được chè chén thỏa thuê, say sưa sung sướng.

Trong bầu không khí vui vẻ ấm áp, Lam Hạo Nguyệt buồn bã đứng dậy, vác bọc vải vẫn chưa hề được mở ra, đẩy cửa phòng, chạy về con đường mòn âm u thông ra bên ngoài cốc.

Cùng lúc đó, tại bữa tiệc trên núi Chúc Dung, đám đệ tử Hành Sơn ngồi vây xung quanh, trong đó có cả hai gã bắt nạt Thụ An vào buổi chiều trên đường núi. Mọi người ăn uống linh đình, vội vàng mời rượu Triệu Thời Anh vừa trở về.

“Ngũ sư đệ, cậu đúng là biết làm trò. Lam Hạo Nguyệt kia bị cậu lừa gạt không biết làm sao, chắc là bây giờ đang trốn trong phòng khóc lóc chứ gì?”

“Không đúng, theo tôi biết về tính tình con nha đầu kia, nhất định là sẽ tranh cãi một trận ra trò với Lam Bách Thần đây!”

Triệu Thời Anh híp mắt nói: “Ai bảo ngày thường cô ta không xem chúng ta vào mắt, bây giờ dọa một trận cũng chẳng gì không được. Nếu sư phụ có hỏi tới, cứ bảo do nghe đồn thôi, Lam Bách Thần cũng không đến mức so đo tính toán gì đâu.”

“Cậu thật là!”

Cả đám cười phá lên, tùy tiện reo hò, khiến cho vầng trăng sáng ngoài phòng cũng phải trốn vào mây, hồi lâu mà chẳng thấy.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.