Linh Dị Âm Dương

Chương 34: 34: Lên Đường





Bao Phú Quý đứng chôn chân tại chỗ, nhìn một hàng ba thầy trò trước mặt, thật muốn đào một cái lỗ chui xuống quách cho rồi.
“Xin…xin lỗi.

Tôi thật sự cho rằng là…quỷ gõ cửa.”
Cố Cửu dở khóc dở cười, lúc hai người xuống núi không có lấy chìa khóa theo, chìa khóa nhờ Bao Phú Quý giữ giúp, gã sống chết không mở cửa nên bọn họ phải cử một người trèo tường vào mở cửa.
Phương Bắc Minh mới đi đường xa trở về, lúc này mới tỏ vẻ hơi mệt mỏi.

Y ngồi xuống ghế, đón lấy tách trà Bao Phú Quý đưa lên, nhấp một ngụm, hỏi: “Nghe Tiểu Cửu Nhi nói ngươi muốn bái ta làm thầy?”
Bao Phú Quý gật đầu, cố gắng mở to đôi mắt hí của mình để tỏ lòng mong đợi, hi vọng Phương Bắc Minh sẽ cảm được tấm lòng chân thành của mình.
Phương Bắc Minh lắc đầu, nói thẳng: “Ta không định nhận thêm đồ đệ nữa, nếu ngươi thật sự muốn học tập đạo thuật, ta có thể giới thiệu ngươi đến đạo quan khác.”
Bao Phú Quý còn chưa chịu từ bỏ, năn nỉ: “Tôi chỉ muốn bái ngài làm thầy thôi, thật sự không được sao ạ?”
Phương Bắc Minh vẫn cương quyết từ chối: “Không được.”
Lần này y trở về là để hoàn thành việc luyện Thất Tinh Hoàn cho Tiểu Cửu Nhi.

Sau khi thành sự thì cả ba thầy trò đều phải lên đường, nào còn có thời gian để dạy dỗ đồ đệ nữa.
Bao Phú Quý nghe vậy thì cụp mắt tiu nghỉu.
Phương Bắc Minh còn chưa ăn cơm tối, Cố Cửu cũng không có tâm trạng để an ủi Bao Phú Quý, cậu sốt sắng việc lo cơm nước cho sư phụ mình hơn.

Cố Cửu vào bếp chuẩn bị cơm tối và pha nước tắm cho sư phụ rồi mới quay lại nói với y ý định trước đó đã bàn với Thiệu Dật về việc cho Bao Phú Quý ở lại coi sóc đạo quan.
Tuy rằng Phương Bắc Minh không định thu Bao Phú Quý làm đồ đệ, nhưng khi nghe xong đề nghị của Cố Cửu, y cảm thấy vậy cũng được.

Nhà cửa không có ai ở thì sẽ mau chóng hư hại, đạo quan không có ai chăm lo là một lẽ, hơn thế nữa, đến khi bọn họ có tuổi, không đi bắt quỷ nổi nữa thì nơi này sẽ là chốn dưỡng già của họ, cho nên đương nhiên là phải quan tâm đến nó rồi.
Bao Phú Quý vốn là ăn mày, từ nhỏ đã lang thang đi xin cái ăn khắp nơi, không có chỗ ở cố định, nếu gã đồng ý ở lại đây, bọn họ sẽ mua vài mẫu đất cho gã, để gã làm công việc đồng áng, coi như là thù lao.
Dĩ nhiên họ cũng chưa nói với Bao Phú Quý ngay.


Gã năm nay đã hơn ba mươi, trước giờ vẫn đi lừa đảo, không biết là do bản tính lười biếng hay có nguyên nhân gì khác mà lại chấp nhận cuộc sống bấp bênh, rày đây mai đó chứ không tìm một công việc ổn định như vậy.

Bây giờ việc bái sư không thành, không biết gã có còn muốn ở lại đây sống một cuộc sống bình lặng qua ngày hay không.
Cứ như vậy, đợi qua một đêm, Cố Cửu mới đến hỏi thăm Bao Phú Quý.
Cố Cửu nói với gã rằng bọn họ sắp phải ra ngoài, thỉnh thoảng mới trở về đây một lần, đợi xong việc để yên ổn định cư thì phải chờ khoảng mười năm nữa.

Trong mười năm, nếu Bao Phú Quý có thể ở lại đây trông chừng đạo quan thì sau này, khi ba người họ trở về, Bao Phú Quý sẽ được xem là người của Thái Nguyên Quan, có thể ở đây dưỡng già.
Bao Phú Quý nghe xong mừng rỡ đồng ý ngay.
Thật ra gã rất ngạc nhiên, hôm qua bị Phương Bắc Minh từ chối nên gã đã chuẩn bị tinh thần sẽ phải rời đi, tiếp tục cuộc sống chạy ăn từng bữa như trước đây rồi.

Ai ngờ bây giờ Cố Cửu nói rằng gã có thể tiếp tục ở lại.

Gã nghĩ dù dù không phải đồ đệ chính thức nhưng mà có chỗ ở tử tế, được làm quản gia thì cũng đã tốt lắm rồi.
Bao Phú Quý đã qua tuổi nhi lập mà còn lông bông cũng vì từ nhỏ đã quen với cuộc sống tự do buông thả, không chịu nổi cảnh sống bó buộc, phải lao động cật lực mỗi ngày, dù sao thì cảnh ba bữa đói một bữa no cũng chẳng xa lạ gì với gã.

Nhưng mà từ khi sắp bước qua ngưỡng trung niên gã lại thay đổi suy nghĩ, thường hay nghĩ đến việc tương lai, bắt đầu lo lắng cho tuổi già của mình.
Bởi vì Bao Phú Quý đồng ý ở lại, cho nên sau này đạo quan vẫn sẽ mở cửa đón khách hành hương như cũ.

Tiền nhang đèn thu được sẽ dùng để lo việc hằng ngày trong đạo quan cũng như chi phí sinh hoạt cho Bao Phú Quý.

Ngoài việc dọn dẹp quét tước trong ngoài, Bao Phú Quý sẽ đón khách dâng hương, hướng dẫn cho họ những việc phải chú ý.
Sau khi sắp xếp xong xuôi mọi việc, Phương Bắc Minh mới nói cho Thiệu Dật và Cố Cửu nghe về Huyết Sát Âm Long Trận.
Muốn tạo ra được Âm Long, ít nhất cũng phải bày cả vạn cái trận pháp mới được, bởi vì tuy vảy trên thân rồng rất nhiều, mỗi cái vảy so với toàn thân rồng thì không đáng kể, nhưng chỉ thiếu mất một cái thì cũng là thiếu, dù có tạo được Âm Long thì chung quy vẫn là một con rồng bệnh mà thôi.

Mấy năm nay Phương Bắc Minh theo hướng tây mà đi, ráo riết tìm kiếm, đã phá được hơn ngàn cái.


Trong lúc phá trận cũng gặp phải phản kích của kẻ bày trận.

Tuy nhiên kẻ chủ mưu chỉ đứng sau điều khiển, lợi dụng người khác làm bia đỡ đạn nên y vẫn chưa chính thức chạm mặt hắn, nhưng cũng có thể khẳng định đó chỉ là một người, không phải một tổ chức thao túng.
Phương Bắc Minh nói: “Thất Tinh Hoàn sắp luyện xong, đến lúc đó Tiểu Cửu Nhi và Dật Nhi, hai con đi theo phía đông, vi sư sẽ đi phía nam, nhất định phải phá được tất cả các trận pháp kẻ đó đã bày ra.”
“Thưa vâng.” Cố Cửu và Thiệu Dật đồng thanh nói.
Thời gian còn lại, ba thầy trò tập trung vào việc hoàn thành Thất Tinh Hoàn.

Đao phải mài cho bén, pháp khí thì cần khai quang, loại nghi thức này Đạo giáo gọi là khai quang, Phật giáo gọi là gia trì.

Trận pháp luyện chế Thất Tinh Hoàn đến thời hạn kết thúc bèn tự đóng lại, Phương Bắc Minh mở đàn tế, cử hành nghi thức khai quang.
Đàn tế này là để xin Cửu Thiên Huyền Nữ truyền một tia sét vào Thất Tinh Hoàn.

Cửu Thiên Huyền Nữ là thần linh thượng cổ, chủ sát phạt, cai quản sấm sét, là một vị chiến thần.

Ban đầu bảy đồng tiền cổ bị Phương Bắc Minh thu hồi trông không khác gì những đồng tiền bình thường, còn có vẻ cũ kĩ, nhưng bây giờ tuy vẫn không quá khác biệt nhưng nếu nhìn kĩ sẽ thấy có ánh sáng màu tím lấp loáng xung quanh chúng.
Bao Phú Quý xem đến nỗi ngây người ra.
Vừa rồi lúc Phương Bắc Minh tế lễ, bầu trời vốn trong xanh không một gợn mây bỗng xuất hiện một cụm mây đen, sấm sét ầm ầm quất xuống rất đáng sợ.

Sau khi Phương Bắc Minh quát lớn một tiếng thì mây và sét mới dần dần tan đi, mọi thứ trở lại như cũ như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Trời ơi, vị này có thể gọi mây đến rồi xua mây đi đó!
Thật là thần thông quảng đại!
Phương Bắc Minh giao Thất Tinh Hoàn cho Cố Cửu: “Thử xem.”

Cố Cửu nói cảm ơn sư phụ rồi thử đeo Thất Tinh Hoàn lên cổ tay phải.

Pháp khí vừa chạm tay, cậu đã cảm thấy âm khí lạnh lẽo trong người mình cứ như bị hù sợ, vội vàng hùa nhau co cụm lại, trở nên ngoan ngoãn biết điều.

Cố Cửu đứng dưới ánh mặt trời, lúc chưa cầm Thất Tinh Hoàn cậu phải mặc hai lớp áo mới chịu nổi cái lạnh, nhưng bây giờ, âm khí đột nhiên rút đi, Cố Cửu cảm giác được thân thể mình ấm áp hơn hẳn, cái nóng của ánh mặt trời chiếu vào cũng trở nên rõ ràng hơn.
Tuy rằng Thất Tinh Hoàn không thể trừ bỏ hoàn toàn âm khí của Cố Cửu, nhưng có thể trấn áp chúng nó thì cậu cũng đã thoải mái hơn nhiều rồi.
Cố Cửu nhìn sang thấy Phương Bắc Minh vì vừa dẫn sét nên mặt mày tái hẳn đi, tức khắc quỳ xuống, cảm kích từ tận đáy lòng mà khấu đầu thật sâu.
“Tiểu Cửu tạ ơn sư phụ.”
Nói xong cậu lại quay sang nhìn Thiệu Dật, chắp tay: “Cảm tạ sư huynh.”
Đối với Cố Cửu, đời này mạng sống của cậu là do hai người ban cho.

Người đầu tiên là người mẹ đã thành quỷ của cậu, người thứ hai là Phương Bắc Minh.

Giữ được mạng sống là một lẽ, có thể sống tốt đến bây giờ là nhờ vào sự bảo hộ ngày đêm của những người xung quanh.

Ngoại trừ mẹ và sư phụ còn có bà nội, Tiểu Đệ và sư huynh Thiệu Dật thương yêu chăm lo cho cậu, nếu không có họ, Cố Cửu đã sớm bỏ mình trong những nguy nan trùng trùng kia rồi.
Thiệu Dật nhìn Cố Cửu quỳ trên đất, nhăn nhó: “Bộ mặt đất mát lắm hả?”
Phương Bắc Minh đỡ Cố Cửu dậy, nói: “Biết sư phụ vất vả thì đừng để sư phụ lo lắng.

Dật Nhi cũng vậy, sau này hai đứa bôn ba bên ngoài, gặp phải quỷ quái, nếu nắm chắc đánh thắng được thì hãy đánh, nếu thấy đánh không lại thì phải lo chạy, biết không? Bình an khỏe mạnh mới là quan trọng nhất, hơn nữa còn phải để ý đề phòng kẻ tiểu nhân.”
Cố Cửu và Thiệu Dật vâng dạ: “Đồ nhi đã rõ.”
Phương Bắc Minh nghe vậy mới yên tâm, bảo bọn họ dọn dẹp pháp đàn, còn mình thì đi điều khí tịnh tâm một lúc.
Cố Cửu giống như đứa bé vừa mới được cho đồ chơi mới, cứ chốc chốc lại săm soi Thất Tinh Hoàn trên tay.

Bao Phú Quý chống gậy khập khiễng bước lại, hỏi: “Tiểu Cửu ca, có phải pháp khí này rất mạnh không?”
Cố Cửu cười đáp: “Đương nhiên rồi, là pháp khí thuộc hệ sấm sét.”
Bao Phú Quý hiếu kì hỏi tiếp: “Nếu nói vậy chẳng lẽ lúc đánh quỷ quái sẽ khiến bọn chúng hồn phi phách tán sao?”
“Tôi chưa thử nên cũng không biết uy lực mạnh đến độ nào.” Cố Cửu nói.
Cố Cửu bị Bao Phú Quý khơi dậy sự tò mò, vốn muốn xem pháp khí của mình mạnh đến đâu, nhưng lại không thể ra ngoài bắt đại một con quỷ vô tội thử nghiệm được, hơn nữa cậu còn bận chuẩn bị đồ mặc cho chuyến đi sắp tới và đạo cụ bắt quỷ cho nên đành phải gác chuyện đó sang một bên, cho đến ngày xuất phát, Cố Cửu vẫn chưa có cơ hội dùng thử Thất Tinh Hoàn.

Trước khi đi, bọn họ để lại cho Bao Phú Quý khoảng một trăm lá bùa bình an, dặn gã giữ gìn cẩn thận, nếu có người dân trong vùng tới xin bùa thì đưa cho họ.

Trong đạo quan có mấy quyển sách nhập môn về gieo quẻ bói toán, nếu Bao Phú Quý thật sự hứng thú với lĩnh vực này thì lúc rảnh rỗi có thể lấy xem, nhưng tuyệt đối không được xem bói lung tung cho người ta.

Nếu bọn họ biết được gã lợi dụng Thái Nguyên Quan để lừa lọc dân lành, ngựa quen đường cũ thì khi họ trở về gã sẽ bị trục xuất ngay.
Bao Phú Quý liên tục hứa hẹn, nói mình sẽ không làm vậy, bởi vì gã còn muốn ở lại đây dưỡng già nữa, cho nên sẽ đàng hoàng chăm lo cho đạo quan, làm việc sống qua ngày.
Những hộ gia đình sống dưới chân núi lâu nay qua lại thân thiết với đạo quan nghe tin lần này cả ba thầy trò đều phải đi bèn lục tục tới tiễn đưa, mọi người đều không nỡ chia tay, nhất là Ngân Linh, cô bé buồn rười rượi cả ngày.
Sức khỏe của Ngân Linh đã bình thường trở lại, chỉ là sau sự việc lần trước, cha mẹ cô bé không dám để con gái đi lung tung khắp nơi nữa, bắt đầu dỗ cô bé ở nhà học thêu thùa may vá, cho nên dạo gần đây Ngân Linh cũng ít chạy lên đạo quan chơi.
Ngân Linh phất phất tay với Cố Cửu đang dần đi xa, nói với theo: “Tiểu Cửu thúc thúc, Tiểu Đệ, mọi người phải thường xuyên về thăm con đó.

Con với các bạn người giấy dưới gốc cây đào sẽ nhớ mọi người lắm.”
Phương Bắc Minh thò tay nhéo nhéo lỗ tai Tiểu Đệ đang nằm trong lòng Cố Cửu, trêu ghẹo Thiệu Dật: “Con xem kìa, con còn thua cả một con mèo nữa.”
Thiệu Dật hừ lạnh một tiếng, ra vẻ ai mà thèm để ý chứ.
Cố Cửu cùng hùa theo: “Sư huynh nghiêm túc quá, hồi còn nhỏ con cũng sợ huynh ấy muốn chết, huống chi Ngân Linh chỉ là một cô bé mới tí tuổi đầu.”
Phương Bắc Minh làm bộ sầu khổ than van: “Dật Nhi à, con cứ như vậy thì sau này ế vợ mất thôi.” Lúc nào cũng làm ra vẻ đừng có ai chọc tới ta như vậy thì ai dám có ý với hắn kia chứ.
Cố Cửu nghe vậy thì hào hứng mách với Phương Bắc Minh chuyện cười của Thiệu Dật.
Bọn họ tuy là người tu đạo nhưng không vào môn phái, chỉ xem là tu tại gia, không có xuất gia chính thức, không kiêng thức ăn mặn, vẫn có thể cưới vợ sinh con như người thường.

Có một lần nọ, hai sư huynh đệ đi bắt quỷ, con gái của nhà đó để ý Thiệu Dật.

Đó là lần đầu tiên Cố Cửu gặp được một cô gái không sợ bộ dáng lạnh tanh của Thiệu Dật như vậy.

Hai người ở lại nhà đó mấy ngày, cô gái kia vẫn luôn tìm cơ hội bắt chuyện với hắn, kết quả Thiệu Dật là tên đầu gỗ, không hề hiểu được thâm ý của người ta.

Hắn ráng nhịn mấy lần, cuối cùng không nhịn nổi nữa, lúc cô nàng kia lại tìm đến, hắn trở mặt hung hăng với người ta tại chỗ.
Hắn nói huỵch toẹt: “Ngươi là vịt tinh biến thành à?”
Cô gái kia đỏ mặt tía tai, nổi giận đùng đùng, sau đó không xuất hiện trước mặt hắn lần nào nữa.
Cố Cửu vẫn luôn cảm thấy với tính tình khó ở như vậy, chắc không có ai lọt nổi vào mắt của sư huynh đâu, có khi huynh ấy phải sống kiếp độc thân cả đời này rồi..


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.