(38)
Theo truyền thuyết, núi Côn Lôn chính là hóa thân của búa Bàn Cổ, trên thì xuyên hết chín tầng trời, dưới thì cắm qua chín tầng địa ngục. Là tổ tiên của Thập Vạn Đại Sơn[1] từ thời hỗn độn sơ khai, cũng là nơi cấm địa của các chư vị thần phật sau bao đời biến đổi thăng trầm.
[1] Một dãy núi dài khoảng 170 km, rộng khoảng 15-30 km ở Đông Nam khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc. Dãy núi này chạy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam với phía Nam về tổng thể cao hơn phía Bắc. Đầu phía Đông Bắc bắt đầu ở Khâm Châu; đầu phía Tây Nam ở huyện Ninh Minh sát biên giới với Việt Nam. Đỉnh cao nhất trong Thập Vạn Đại Sơn có độ cao tuyệt đối là 1.462 m.
Tên Nát Rượu nhớ nhung bữa hoa tửu không được thưởng thức lần trước, cả đêm thèm thuồng không yên nên đã chuồn đi rồi. Tôi và Liễm Trần thì không có lòng dạ chơi bời như thế, liền cùng nhau đi thẳng đến nơi cần đến.
Ngồi trên đám mây phi vun vút, tôi chống cằm quan sát những mảnh đất địa linh nhân kiệt như ẩn như hiện giữa màn tiên khí mờ ảo vô hạn, buồn chán thuận miệng thở dài: “Những sinh vật bình thường chẳng thể nào trông thấy được cảnh vật hoành tráng hùng vĩ này, đây mới thật sự là lãng phí của trời mà!”.
Liễm Trần đứng yên bên cạnh tôi vẫn giữ nguyên thái độ nghiêm túc vốn có, thật thà đáp lại: “Ngày đó Hồng Quân để tránh cho linh mạch nơi này bị đại hồng thủy làm cho hao tổn, đã lập một phong ấn trước khi tạ thế, để phần lớn vùng đất này tồn tại trong một không gian và thời gian riêng biệt, không bị ảnh hưởng bởi những đổi thay của tam giới. Cho nên thứ mà sau này người đời nhìn thấy được, chẳng qua chỉ là một đoạn chân núi của cả dãy Côn Lôn mà thôi”.
“À, chính là trận hồng thủy do Cộng Công đánh sập núi Bất Chu[2] tạo thành đúng không?”
[2] Một dãy núi trong truyền thuyết của Trung Quốc, nhiều tài liệu lịch sử ghi chép lại cho rằng Bất Chu Sơn là dãy núi thuộc phía Tây Côn Lôn.
Chuyện kể rằng vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế, Cộng Công cùng hậu duệ của Hoàng Đế là Chuyên Húc tranh đoạt thiên hạ, Cộng Công thua cuộc giận dữ húc đổ Bất Chu Sơn, từ đó trụ trời đứt gãy, đất nứt ra, trời nghiêng về Tây Bắc, mặt trời trăng sao di chuyển về Tây Bắc, đất sụp về Đông Nam, sông ngòi kênh rạch đổ dồn về Đông Nam.
Liễm Trần gật đầu: “Trận đại hồng thủy đó đổ ập xuống đã khiến cho linh khí vốn tràn đầy trong thiên địa mất đi đến tám chín phần mười, chỉ có núi Côn Lôn là không bị tổn hại gì”.
Tôi thầm bĩu môi, không nhịn được khẽ hắng giọng, lời nói chẳng thèm khách khí nữa: “Mặc dù trước giờ ta chỉ là kẻ kém cỏi dốt nát chỉ biết ăn no chờ chết, nhưng ta cũng từng nghe qua cái gọi là ‘Tiên hữu Hồng Quân hậu hữu thiên’. Hồng Quân lão tổ đó đã tồn tại từ trước khi Bàn Cổ dẹp tan hỗn độn, nếu y lợi hại như vậy, thì tại sao không nghĩ cách phòng ngừa cho tai họa không xảy ra, trái lại chỉ lo bảo vệ địa bàn của chính mình thôi? Dù là chưa từng trải qua, nhưng ta cũng biết trận đại hồng thủy cuốn phăng toàn bộ thế gian đó đáng sợ đến cỡ nào. Hay là việc sinh linh đồ thán đối với mấy vị đại thần thượng cổ lợi hại như các huynh mà nói, chẳng qua chỉ là quá trình tất yếu phải trải qua để đạt được một mục đích nào đó, là cái giá đáng phải trả mà thôi?”.
Lần này, Liễm Trần yên lặng một lúc lâu, sau đó mới chậm rãi nói: “Tiêu Dao, có rất nhiều chuyện, không những chỉ sức người không thay đổi được, mà đến Bàn Cổ cũng phải bó tay. Nếu không, sao ông ấy lại nhẫn tâm tận mắt chứng kiến thế gian do chính tay mình dựng nên phải chịu đựng tranh chấp tàn phá không ngừng, ôm nhiều tiếc nuối mãi mãi không thể vãn hồi như vậy được chứ? Cho nên, mặc dù đã sớm tiên đoán, biết trước kết cục, Hồng Quân cũng không cách nào nhúng tay vào được. Việc ông ấy có thể làm, là dùng hết sức mình để bảo vệ địa mạch Côn Lôn, bảo vệ cho các đệ tử của mình ẩn cư tu hành không bị những sự cố bên ngoài tác động tới. Nhưng… có lẽ thật sự là trăm tính vạn tính cũng không hể chống lại được thói đời hắc ám, chiến dịch Phong Thần[3], rốt cuộc vẫn không sao tránh khỏi”.
[3] Theo truyền thuyết, sau khi Nữ Oa đội đá vá trời, phân chia trời đất ra khỏi mớ hỗn độn ban đầu, vạn vật mới có sự sống. Tuy nhiên thần tiên cai quản trên trời chưa có ai, nên cần phải có chiến dịch sắc phong chức thần cho những người có công với trời đất. Cũng theo truyền thuyết này, Trung Quốc đã có hai lần Phong Thần: Lần thứ nhất xảy ra vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế, thủ lĩnh của ba bộ tộc lớn nhất gồm Hoàng Đế (Hiên Viên), Viêm Đế (Thần Nông) và Xi Vưu đã huyết chiến nhiều năm liên tục để thống nhất thiên hạ. Cuối cùng Hoàng Đế đại thắng. 365 vị anh hùng được phong làm thần. Cánh cửa giữa hạ giới và tiên giới được mở ra.
Lần Phong Thần thứ hai xảy ra vào thời nhà Chu. Trải qua mấy vạn năm, con cháu của các dòng họ trên lại vướng thêm vào một trận hào kiếp nữa, đó là khi nhà Chu, dưới sự điều binh khiển tướng của đại vương Cơ Phát và đạo sĩ Khương Tử Nha, đã cùng nhau đứng dậy chống lại Nhà Thương. Những người này đều được ghi tên trong bảng Phong Thần do Bá Giám quản lí, mà người chịu trách nhiệm là Khương Tử Nha. Truyền thuyết này đã được nhà văn Hứa Trọng Lâm ghi lại và sáng tạo thêm trong tiểu thuyết ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’.
Tôi đột nhiên giật thót tim, quay đầu thoáng nhìn ống tay áo trắng muốt ẩn hiện trong mây, cuối cùng không nói thêm gì nữa.
Trận chiến Phong Thần diễn ra hai nghìn năm trước, loài người vĩ đại đã dùng trí tưởng tượng phong phú có thể khiến quỷ thần cũng phải khóc thét của họ mà sang tạo ra rất nhiều những phiên bản khác nhau về trận chiến này.
Trong đó phiên bản được lưu truyền rộng rãi nhất, chính là: Tên xúi quẩy Thương Trụ Vương ăn no rửng mỡ đã viết một bài thơ tươi mới ca ngợi vẻ đẹp ngất ngây của Nữ Oa nương nương, khiến Nữ Oa cho rằng mình đường đường là thần tiên một cõi lại bị một con người ngu xuẩn đùa giỡn, bà vô cùng tức giận, bèn phái một hồ ly tinh xuống làm cho Trụ Vương vốn có thể coi là minh quân trở thành hình tượng bạo quân điển hình. Kết quả khiến cho dân chúng lầm than, tiếng oán hận nổi lên bốn phía, nhân dân khắp nơi dấy binh khởi nghĩa. Ầm ĩ một hồi, đến khi loài người chém giết nhau đến mức kiệt quệ chẳng còn gì đáng để xem, cuối cùng đã kinh động đến các vị thần trên núi Côn Lôn.
Đã là đánh nhau, thì phải ngang tài ngang sức mới hấp dẫn.
Cho nên các vị thần cũng thuận theo lòng người, dựa vào thị hiếu khán giả mà chia thành hai phe, Xiển giáo[4] đại diện cho chính nghĩa và Triệt giáo[5] nối giáo cho giặc.
Thủ lĩnh của hai phái này là hai đệ tử của Hồng Quân lão tổ, Nguyên Thủy Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo Chủ.
[4] Giáo phái do Nguyên Thủy Thiên Tôn (đệ tử thứ hai của Hồng Quân Lão Tổ) sáng lập, quy định chỉ những người có cốt cách thì mới được tu tiên học đạo. Trong đó, Khương Tử Nha là đệ tử đời thứ hai, Dương Tiễn là đệ tử đời thứ ba của Xiển giáo.
[5] Giáo phái do Thông Thiên Giáo Chủ (đệ tử thứ ba của Hồng Quân Lão Tổ) sáng lập, sánh cùng Xiển giáo và Lão giáo thời đó. Giáo phái này không những nhận các đồ đệ là người mà còn nhận các đồ đệ là các con vật, như Quy linh thánh mẫu, chủ trương “Hữu giáo vô loài”… Theo như truyện ‘Phong Thần Diễn Nghĩa’ thì vua Trụ triều Thương cũng là một trong các học trò của Triệt giáo, được vô số các học trò khác của đạo Triệt xuống giúp đỡ, nhưng vì vô đạo mà mất ngôi, phải tự thiêu mình ở lầu Trích Tinh.
Cứ đánh qua đánh lại suốt nhiều năm, cuối cùng cũng phân được thắng bại.
Triệt giáo thất bại, ngay đến tên thủ lĩnh cũng chết ngắc ngoải không còn cả hồn phách, Xiển giáo thắng lợi được anh cả Ngọc Đế thưởng lớn, tất cả các đệ tử đều được thay da đổi thịt lên trời làm quan. Đương nhiên ngoại trừ Dương Tiễn được phong thánh vì mang thân xác con người.
Cuối cùng ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, ai nấy đều rất vui mừng.
Đây cũng chính là đầu đuôi câu chuyện được kể lại trong danh phẩm nổi tiếng Phong Thần Diễn Nghĩa.
Nếu có cơ hội được trở thành phát ngôn viên cho kẻ chủ mưu đã khiến cho tam giới loạn tùng phèo cả lên này, tôi nhất định phải nói…
Làm nữ nhân khó, làm nữ thần tiên càng khó hơn, làm nữ thần tiên chết rồi mà còn bị hàm oan[6] càng khó hơn gấp bội. Không làm gì cũng bị hàm oan cả tám nghìn năm, nằm thôi mà cũng trúng tên, tôi phải vì chính mình mà lên tiếng, tôi là Nữ Oa…
[6] Nguyên văn là “Đầu gối trúng tên”, là ngôn ngữ mạng thịnh hành ở Trung Quốc, vốn xuất phát từ lời kịch trong một bản Game Online: “I used to be an adventurer like you, then I took an arrow in the knee”, tạm dịch: “Tôi đã từng là một người phiêu lưu như cậu, cho đến khi đầu gối trúng tên”, lời thoại này lặp đi lặp lại khá ấn tượng nên đã vượt xa khỏi bối cảnh ban đầu mà trở thành ngôn ngữ mạng của giới trẻ. Sau này, “đầu gối trúng tên” còn được dùng với nhiều ý nghĩa khác nữa, như chỉ người vô tội chẳng may bị liên lụy (tương đương với câu “nằm yên cũng trúng đạn”), hay chỉ những chuyện khó khăn gian khổ mà người nào đó đã từng trải qua
Chưa nói đến chuyện hơn một vạn năm trước Nữ Oa và Phục Hy cùng các vị lão thần đã tạ thế tan biến giữa thiên địa, chỉ nói riêng chuyện một lần thay đổi triều đại bình thường của nhân giới mà cũng có thể kinh động khiến các vị thần ở Côn Lôn hỗn chiến, thật là quá vô lý.
Dương Tiễn học nghệ thành tài rời khỏi Côn Lôn, chỉ đơn thương độc mã mà đã có thể đánh cho Thiên đình thua liểng xiểng, nếu như có hàng ngàn hàng vạn Dương Tiễn cúng nhau kéo đến náo loạn thì…
Thực sự là chỉ nghĩ thôi mà tôi cũng phải sợ hãi khóc thét thay cho Ngọc Đế…
Trở lại vấn đề chính, sự thật rốt cuộc là như thế nào, tôi cũng không biết rõ ràng cho lắm. Chỉ là trong lúc Tên Nát Rượu say sưa túy lúy, hình như tôi đã nghe thấy hắn lải nhải qua vài câu. Có điều kết hợp thêm mấy câu vừa rồi của Liễm Trần, cũng có thể đoán ra được một vài manh mối.
Đúng như Liễm Trần nói, từ sau khi đại hồng thủy phá hủy linh mạch, thì rất ít người có được tu vi rung trời chuyển đất. Nhưng các đệ tử trên đỉnh Côn Lôn sừng sững của Hồng Quân thì lại ngày càng mạnh lên, cứ như vậy, e rằng sẽ có lúc không thể khống chế được nữa.
Cho nên, mới có cái gọi là đại chiến Phong Thần.
Triệt giáo bị tiêu diệt, hầu hết đệ tử Xiển giáo đều trở thành những nhân viên công vụ nhàn hạ, tu vi mãi mãi không tang tiến của Thiên đình.
Cái giá phải trả là hai phe đều bị thương, đổi lại kết cục là tam giới được cân bằng.
Chỉ là không biết, người bày ra trận cờ này, là vị Nguyên Thủy Thiên Tôn mãi mãi đóng cửa tu hành sau chiến dịch Phong Thần, là Thông Thiên Giáo Chủ đã hồn phi phách tán, hay là bàn tay nào khác ở phía sau. Bất luận là ai đi nữa, người ấy có từng hối hận hay không?
Chỉ là không biết, những người đã chết đi mà chẳng hay biết gì, những người đi làm quan một cách mù mờ, đối với số kiếp trở thành quân cờ bị vứt bỏ của mình, có từng oán hận hay không?
Nhưng bất luận là âm mưu quỷ kế tiêu diệt kẻ đối lập cũng được, phẩm chất cao thượng tự nguyện hi sinh cũng tốt, nói gọn lại thật ra chỉ là một câu nói – chim dậy sớm thì có sâu ăn, chim dẫn đầu thì dễ ăn đạn.
Ra vẻ lợi hại thì bị sét đánh, lợi hại thật thì bị trời phạt, tìm ai mà đòi lý lẽ đây?
Kết thúc việc nhìn cảnh nay nhớ chuyện xưa vô nghĩa, tôi phủi quần áo đứng dậy, vẫy tay với Liễm Trần: “Ta đến nơi rồi, tạm biệt”.
Y chầm chậm hạ đám mây xuống, dừng lại trên đỉnh Côn Lôn quanh năm phủ tuyết trắng xóa, cụp mi mắt nhìn tôi, mỉm cười, nhẹ nhàng nói: “Bảo trọng”.
Tôi vừa nhảy khỏi đám mây, y lập tức xoay người rời đi, chớp mắt đã biến mất.
Tôi đứng tại chỗ vân vê mũi, rồi đột nhiên thở dài.
Đúng là ngay một lời khách sáo cũng không có, đến một tiếng “tạm biệt”, cũng không muốn nói sao?
(39)
Liễm Trần bỏ đi dứt khoát như vậy khiến cho tôi đột nhiên cảm thấy có chút nuối tiếc.
Nơi này ngập tràn một màu trắng xóa, lại lạnh đến thấu xương, tôi ngồi xổm xuống lặng lẽ vẽ vài vòng tròn trên nền tuyết, hắt xì hơi mấy cái thật to, cuối cùng đưa mắt nhìn hang tuyết đằng sau trận pháp ngay trước mặt.
Nơi đó, có Dạ Mặc.
Vẫn đang đợi chờ, chờ tôi trở lại…
Tôi cắn răng, cưỡi mây xuống núi.
Côn Lôn tiên cảnh nay đã trở thành cấm địa với các vị thần phật, loại yêu quái cỏn con như tôi hiển nhiên cũng không có tư cách gì mà được tự tiện tiến vào.
Thả lỏng chân tay, tôi dựa vào thân cây ngô đồng cao chọc trời, ngẩn ngơ nhìn hết ánh mặt trời đến ánh trăng sao thay nhau chiếu qua cành lá, thỉnh thoảng còn có vài trận mưa rơi, làm cả người tôi ướt sũng.
Thật ra, tôi cũng không biết mình đang chờ đợi cái gì, chỉ biết trong lòng rất trống rỗng, là kiểu trống rỗng vô cùng hỗn loạn nhưng lại hoàn toàn không hiểu vì sao.
Chớp mắt một cái đã lại là sáng sớm tinh sương.
Tôi vẫn đang ở dưới gốc cây ngẫm nghĩ xem phải làm sao mới có thể ngồi giống một cây nấm lớn, thì chợt nghe thấy một tiếng nổ vang lên bên tai, đất đai rung chuyển ầm ầm, cũng may là rất nhanh sau đó mọi thứ đã trở lại bình thường.
Tôi không kịp đề phòng nên bị trận động đất làm cho ngã lộn nhào, đến khi cả người phủ đầy bụi đất chật vật đứng lên, thoáng nhìn thấy xa xa có một vầng ánh sáng xanh vọt thẳng lên tận trời.
Tôi ngửa đầu nhìn lên, thì thào tự nói với mình: “Lẽ nào cánh cửa núi Côn Lôn đóng chặt hai ngàn năm đã mở ra sao…”.
“Khà khà, cuối cùng cũng chịu mở rồi!”
Trên đỉnh đầu tôi đột nhiên vang lên một tràng cười khiến tôi giật nảy mình: “Ai đấy?”.
“Ta.”
“… Ông là ai mới được chứ?”
Tôi trố mắt đứng nhìn khuôn mặt vừa hé ra khỏi cành cây, lùi lại nửa bước: “Ông… ông vẫn luôn ở đó hả?”.
“Đúng vậy.”
“… Vì sao không lên tiếng?”
“Ta muốn xem ngươi định làm gì.”
“… Ta định làm gì thì liên quan gì đến ông?”
“Ta hiếu kỳ không được sao?”
“…”
Tôi chịu thua, dứt khoát quay lưng đi không thèm để ý nữa, người nọ nhảy xuống khỏi cành cây, ngồi xổm xuống ngay bên cạnh tôi: “Ê, sao lại tịt ngòi rồi?”.
“Không muốn nói chuyện với cái loại vô liêm sỉ như ông.”
“Ồ, vậy ngươi có muốn biết thằng cha vừa lên trời kia định làm gì không?”
Nhắc tới chuyện này tôi lại càng thêm buồn bực: “Chỉ bằng thứ công phu mèo ba chân của ta mà muốn qua đó có khác nào chán sống đâu?”.
“Ai nói nhất định phải đích thân đến đó mới có thể nhìn thấy chứ?”
Tôi lập tức mắt sáng như sao nhìn ông ta chòng chọc: “Ông có cách hả?”.
Ông ta nhìn lại tôi bằng ánh mắt sáng quắc: “Tất nhiên rồi!”.
Tôi nghẹn ngào nước mắt: “Lão anh hùng!”.
Ông ta tưng tửng: “Nhưng chuyện của người khác thì có liên quan gì đến nhà ngươi chứ?”.
“… Ta tò mò mà.”
“Ồ, thế liêm sỉ để đâu rồi?”
Tôi nói chắc như đinh đóng cột: “Chó ăn rồi!”.
Ông ta quan sát thật tỉ mỉ, sau đó vỗ mạnh vào vai tôi: “Cô nương tốt, có tiền đồ!”.
Tôi cố kìm nén cơn kích động chút nữa thì thổ huyết, bắt tay ông ta đầy vẻ nịnh nọt: “Là tiền bối biết cách dạy dỗ thôi!”.
Ông ta cười lớn, từ trong áo lấy ra một tấm gương đồng kiểu dáng vô cùng cổ xưa, ngón trỏ chạm vào bề mặt tấm gương, một hình ảnh từ từ hiện lên rõ ràng, chính là cổng lớn của Thiên đình – Nam Thiên Môn.
Tôi vội vàng lao tới, không quên tiếp tục nịnh nọt: “Bề mặt cảm ứng, thật là kỳ diệu!”.
Vừa khen xong, lại cảm thấy có chỗ nào đó không được đúng cho lắm.
Theo tôi được biết, đúng là có thứ pháp khí có thể giúp người ta lần theo hành tung của mục tiêu đã định trước, nhưng phải có hai điều kiện cơ bản. Thứ nhất pháp lực của người bị lần theo phải yếu hơn người giữ pháp khí, thứ hai là nơi đi đến thường phải không được bảo vệ bằng pháp thuật, nếu không pháp khí ắt sẽ bị nhiễu sóng, thậm chí còn dẫn đến phản vệ gây thương tích cho người dùng.
Chưa nói đến chuyện người vừa phá cửa núi đi ra là vị cao nhân nào, mà chỉ cần nhìn chỗ mà ông ta đang đứng lúc này, chính là Thiên đình, là nhà của Ngọc Đế, là nơi tụ tập của các loại quan to trong tam giới, là nơi mà tất cả những kẻ khủng bố nằm mơ cũng muốn phá sập, vậy lực lượng phòng ngự… chặt chẽ kiên cố đến mức nào chắc không cần phải giải thích nữa.
Nghĩ đến đây, tôi đột nhiên giật thót tim, hoang mang kinh hãi nhìn người đàn ông trung niên càng nhìn càng cảm thấy cao thâm khó đoán kia, cố gắng đè nén sự run rẩy trong giọng nói: “Vật trong tay ngài đây, chắc không phải là thứ có thể nhìn thấu mọi thứ trong tam giới… Thượng cổ thần khí kính Côn… Côn Lôn chứ?”.
Người đàn ông nghe vậy, ngay cả mí mắt cũng không động đậy, chỉ thuận miệng trả lời một câu hời hợt: “Khả năng quan sát khá đấy”.
Con tim nhỏ bé của tôi ngay tức khắc đập đến rộn ràng: “Nhưng… Sao ta lại nghe nói, kính Côn Lôn là của Thông Thiên Giáo Chủ, đã tan thành tro bụi theo lão ta từ lâu rồi nhỉ…”.
“Tin vịt thôi.”
“… Lão anh hùng, chúng ta có thể đừng nói chuyện hời hợt như vậy được không? Xin ngài hãy suy nghĩ cho nỗi lòng sợ hãi của thính giả quần chúng một chút được không lão anh hùng?”
Ông ta nhíu mày khó chịu, cuối cùng ngẩng đầu nhìn tôi: “Vậy ngươi cảm thấy, ta giống tro hay giống khói?”.
“…”
Mặt trời ló rạng đằng đông, ánh nắng chói chang chiếu rọi khắp nơi.
Tôi nhìn người đàn ông bên cạnh, chỉ cần nụ cười biến mất là hai hàng lông mày lập tức trở nên rậm dày sắc nét, lại nhìn ngọn Côn Lôn cao ngất bề ngoài tưởng như yên lành tĩnh lặng, thực ra bên trong đã sôi sục cuộn trào, sau đó ngẩng cái đầu đang nóng hầm hập lên nhìn trời cao một cách đầy bi thương yếu ớt. Trong lúc hốt hoảng, tôi chỉ cảm thấy cuộc đời yêu quái của mình đã có bước tiến vượt bậc, đạt tới cảnh giới mới không phải tro cũng chẳng phải khói, mà là đỉnh cao giống như sương giống như mưa lại cũng giống như gió.
Chỉ có điều, tôi đã không có cơ hội để bày tỏ cảm xúc giác ngộ đang dâng trào như thủy triều đó, bởi vì hình ảnh hiển thị trong gương đã mở ra màn dạo đầu của một vở kịch hỗn chiến.
Tôi vội vàng im miệng, tập trung theo dõi.
Thiên đình vẫn cứ bồng bềnh mây trắng như vậy, chỉ có điều vẻ đẹp cao sang thường thấy đã bị cảnh tượng đổ nát thê lương khắp chốn phá hủy.
Mà trong Linh Tiêu bảo điện – đại diện của quyền lực tối cao và sự trang nghiêm vô thượng, chỉ còn một đống hỗn độn như vừa bị nổ tung.
Lúc này vừa vặn là buổi chiều sớm, khá nhiều đại thần đã đến, đối diện với tai nạn bất ngờ trước mắt, bọn họ ai nấy đều ung dung làm tròn vai trò nạn nhân đầy trách nhiệm.
Tất cả những việc này đều do một người gây ra.
Một người mang trên mình một tấm áo đạo màu lam nhạt, và một thanh trường kiếm dài ba thước.
“Sao chúng khanh lại ồn ào như vậy?”
Giữa không gian đang ồn ào náo loạn bỗng vang lên một giọng nói già nua từ tốn, âm lượng không lớn lắm, nhưng chỉ trong chớp mắt đã dẹp yên cả đại điện đang vô cùng hỗn loạn.
Lão già râu ria bạc trắng mũ miệng che kín mặt không biết đã ngồi ngay ngắn trên vương tọa từ lúc nào, sắc mặt khó đoán.
Ngọc Đế.
Đạo sĩ mặc áo bào màu lam lập tức chỉ mũi kiếm về phía trước, sắc mặt vô cảm giọng nói không hề dao động, nhưng từng lời đều được gằn thật mạnh: “Ta đến đòi lại công đạo cho đồ nhi của ta”.
“Lệnh đồ là ai?”
“Dương Tiễn.”
“Thượng tiên là…?”
“Ngọc Đỉnh[7].”
[7] Ngọc Đỉnh chân nhân là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn, sư phụ của Nhị Lang Thần Dương Tiễn, sư huynh đồng môn của Khương Tử Nha. Trong “Phong Thần Diễn Nghĩa”, ông từng phái đệ tử Dương Tiễn phò tá Vũ Vương diệt Trụ Vương, cũng từng đích thân ra tay giúp đỡ Khương Tử Nha phá Tru Tiên trận.
Hai chữ vang lên, cả đại điện lặng ngắt như tờ.
Ngọc Đế ngập ngừng hồi lâu, sau đó lại nói tiếp: “Dương Tiễn trong lúc xuất trận đánh dẹp nghịch tặc chẳng may gặp nạn, dốc sức chiến đấu mà chết. Cậu ta thân là thần tiên chấp pháp, nắm giữ binh quyền ba quân, tận trung vì triều đình cũng coi như là chết có ý nghĩa, bất công ở đâu ra chứ?”.
Ngọc Đỉnh vẫn giữ nguyên vẻ mặt thờ ơ, nhưng ánh mắt thì lộ vẻ chế giễu, lão nhắm mắt lại, tựa như không muốn tốn nước bọt đi tranh cãi với cái lý do thoái thác đầy sơ hở đến nực cười này của Thiên đình, cuối cùng chỉ thản nhiên nói: “Tóm lại, hôm nay nếu ta không thể đưa đồ nhi rời khỏi đây, vậy thì, ngươi hãy đền mạng cho đồ nhi ta đi”.
Chỉ một câu nói, cả đại điện lại xôn xao.
Vị quân chủ trên vương tọa khẽ ho một tiếng, tất cả thần tử lập tức đứng nghiêm chỉnh trở lại.
Ngọc Đỉnh thì hoàn toàn không để ý đến những chuyện xung quanh, chỉ khẽ cụp mi nhìn lưỡi kiếm ba thước trong tay mình.
Yên lặng một lúc lâu, Ngọc Đế mới hòa hoãn trầm giọng hỏi: “Nói như vậy, Côn Lôn muốn đối đầu với Thiên đình?”.
Ngọc Đỉnh bấm đốt tay hướng mắt xuống thân kiếm, giọng điệu lạnh lùng mơ hồ ẩn trong tiếng rồng gầm: “Ta báo thù cho đồ đệ, dính dáng gì đến Côn Lôn?”.
“Ông là một trong số mười hai vị tiên trên đỉnh Côn Lôn, mọi lời nói hành động đương nhiên cũng đại diện cho sư môn của mình.”
Ngọc Đỉnh cuối cùng giương mắt nhìn thẳng vào vị chủ nhân của tam giới, áo bào không có gió mà vẫn tự lay động: “Nói như vậy, nếu muốn giết ngươi, thì phải kéo theo cả Thiên đình chọn theo ngươi sao?”.
Ngọc Đế không đáp, chỉ cười thật khẽ.
Ấn đường Ngọc Đỉnh khẽ chau lại một vết mờ rất khó nhận ra, hiện rõ một tia ngập ngừng do dự.
Vẻ thoáng chần chừ trên gương mặt của ông ta đã lập tức bị đập tan khi một tên tiểu binh bị đánh tơi bời ngã nhào vào trong đại điện.
Ngay sau đó xuất hiện trong đại điện, là mười mấy đạo sĩ vạt áo tung bay.
Màu sắc áo bào khác nhau, dáng dấp tướng mạo khác nhau, nhưng thần thái có vẻ bàng quan mà thực ra lại vô cùng kiêu ngạo thì giống Ngọc Đỉnh y như đúc.
Đột nhiên, từ bên ngoài lao vọt vào một đứa trẻ với thứ vũ khí có tính sát thương cao là vòng Kim Cương và bánh xe Phong Hỏa, da dẻ trắng như ngọc, thân hình múp míp như củ sen, lao thẳng về phía một lão đạo sĩ, ôm lấy chân ông ta khóc ầm lên.
Màn thấy trò tình thâm giữa Na Tra và Thái Ất chân nhân rốt cuộc cũng thổi bùng lên ngọn lửa âm ỉ từ nãy giờ.
Lại có thêm non nửa số thần tiên lục tục ra khỏi hàng, hướng về phía đám đạo sĩ kia hành đại lễ thăm hỏi, trong thoáng chốc khắp Lăng Tiêu bảo điện trang nghiêm đều là tiếng khóc tiếng cười vô cùng ồn ã.
Ngọc Đỉnh chỉ lặng yên thu kiếm, một mình đứng lặng một bên, ánh mắt sâu thăm thẳm nhìn cảnh thầy trò xa cách lâu ngày đoàn tụ.
Thái Ất chân nhân dùng đôi bàn tay run run vuốt ve đỉnh đầu Na Tra, hồi lâu, mới đứng thẳng người thở dài một hơi, cất giọng: “Được rồi các vị sư huynh đệ, mấy chuyện rề rà sướt mướt này đợi báo thù cho Dương Tiễn sư điệt xong rồi tính tiếp!”.
Ngọc Đỉnh ngẩn ra: “Các huynh đệ…”.
“Sư điệt Dương Tiễn là đại đệ tử đời đầu của Xiển giáo chúng ta, há có thể chết một cách không rõ ràng như vậy?”
“Có gì mà không rõ ràng, căn bản là rất rõ ràng!”
“Không sai, Ngọc Đế ông mau lên đi!”
“Đúng vậy đừng có lề mề nữa, giết ngươi xong ta còn phải về ủ rượu nữa.”
“…”
Một đám đạo sĩ dùng giọng điệu như đi chợ mua rau mà nói về công cuộc “dùng vũ lực bức vua thoái vị”, vì hậu thế thiên thu vạn đại mà dựng lên mục tiêu phấn đấu cao chót vót đáng ngưỡng mộ…
Đối mặt với thái độ khiêu khích đại nghịch bất đạo như vậy, Ngọc Đế vẫn giữ nguyên thái độ bình tĩnh, đợi cho đám đạo sĩ mồm năm miệng mười ồn ào chán chê xong, mới thong thả nói: “Ta hỏi lại lần nữa, Côn Lôn cố ý muốn đối đầu với Thiên đình phải không?”.
Thái Ất chân nhân lắc đầu cười nhạt: “Chỉ e là Thiên đình từ đầu chí cuối luôn coi Côn Lôn là cái gai trong mắt không trừ không được mà thôi”.
Một vị lão đạo khác không nhịn được vung vẩy cây phất trần ra: “Còn phí lời làm gì! Cho dù muốn đối địch với Côn Lôn ta, cũng còn phải xem các ngươi có đủ tư cách hay không đã”.
“Nếu đã vậy…”. Ngọc Đế trầm ngâm chốc lát, chậm rãi gật đầu, sau đó trầm giọng đầy uy nghiêm: “Binh mã nguyên soái đâu?”.
Ông ta vừa dứt lời, một võ tướng tráng kiện mình khoác quân phục lập tức tiến lên, gập người quỳ lạy: “Khởi bẩm bệ hạ, các đạo binh đế quân ở tứ phương có mười vạn, và tám mươi vạn binh vốn có trên Thiên đình, toàn bộ đã tập kết xong xuôi!”.
Vị quân chủ trên vương tọa còn chưa trả lời, Thái Ất chân nhân đã cười khẩy khinh thường: “Đừng nói là tám mươi vạn, cho dù là tám trăm vạn cũng chẳng qua là đám ô hợp mà thôi, ba nghìn đệ tử Côn Lôn ta không thèm để mắt tới!”.
“Xem ra, trận chiến này khó tránh khỏi rồi…”. Ngọc Đế kéo dài giọng ra vẻ tiếc nuối, chợt thình lình dừng lại, lạnh lùng: “Chúng khanh gia những ai xuất thân từ Xiển giáo, nếu muốn tương trợ sư môn thì cũng là chuyện hợp tình hợp lý, không có gì đáng trách cả, nếu giữa trung và nghĩa không biết lựa chọn thế nào, thì có thể tạm thời đứng ngoài cuộc”.
Ông ta vừa dứt lới, đám quan viên lập tức rì rầm to nhỏ.
Rất nhanh, có một bộ phận nhỏ lặng lẽ cúi đầu lui qua một bên, biểu thị không giúp ai hết. Một bộ phận nhỏ khác thì giống như Na Tra, lựa chọn ở lại bên cạnh chúng tiên Côn Lôn. Còn đại đa số trở về vị trí thần tử như cũ.
Sau khi đã xác định xong phe cánh, chiến sự lập tức căng thẳng.
Côn Lôn đối chọi với Thiên đình, ba nghìn đối chọi với tám mươi vạn.
Trong thời khắc lặng ngắt sau cùng, bỗng nhiên có một âm thanh vang lên.
Tựa sương ngọt giữa tinh mơ, tựa suối mát giữa chốn sa mạc, tựa băng tuyết mới vừa tan chảy, lại giống như chất chứa sắc màu chiến tranh đang cuồn cuộn đâm thẳng lên tận trời cao.
Tiếng đàn.
Vậy là, giữa Lăng Tiêu bảo điện vốn ồn ào huyên náo, trong chớp mắt ngoại trừ tiếng đàn réo rắt ấy ra, không còn chút âm thanh nào nữa, ngay cả tiếng hít thở cũng giống như ngừng trệ.
Không, phải nói là, đã ngừng trệ thật rồi.
Chúng đạo sĩ Côn Lôn cùng hàng trăm thần tiên qua viên trong điện, đều như trúng thuật Định Thân mà không động đậy nổi, chỉ có vẻ mặt hoặc là kinh hãi, hoặc là khiếp sợ, hoặc là vô cùng ngạc nhiên, hoặc là không sao tin nổi.
Một lát sau, một người thân vận bạch y tay ôm đàn cổ, vén áo chậm rãi bước vào điện. Vẫn là dáng vẻ không vướng một hạt bụi trần, trên mặt vẫn là nụ cười trong veo như ngọc.
Liễm Trần.
Dọc đường đi, Liễm Trần còn liên tiếp hướng về phía các vị thần tiên không thể động đậy mà lễ phép tạ lỗi: “Chư vị tiên gia đạo hữu, đắc tội rồi”.
Khi đi tới trước mặt chúng tiên Côn Lôn đang đầy vẻ khinh thường phẫn nộ, y dừng lại, cúi đầu khàn giọng: “Chư vị, xin lỗi”.
Sau đó y tiếp tục đi về phía trước, không nhiều lời nữa.
Đến khi cách vương tọa cao cao tại thượng khoảng chừng ba trượng, Liễm Trần dừng lại, cao giọng: “Xin bệ hạ thứ cho thần tội cứu giá chậm trễ”.
“Thượng thần công lao vĩ đại, sao lại có tội gì chứ?”. Ngọc Đế là người duy nhất trong điện bị tiếng đàn khống chế mà vẫn còn có thể hoạt động bình thường, nhưng với tình trạng này, rõ ràng cũng chỉ có thể làm cá nằm trên thớt mặc người xử trí mà thôi. Tuy giọng điệu của Ngọc Đế vẫn uy nghiêm trầm tĩnh, nhưng rèm châu che mặt cũng không khỏi rung động loạt soạt: “Nếu không phải thượng thần tới đúng lúc, chỉ sợ ta và cả Thiên đình này đã không còn tồn tại được nữa rồi. Lại nói, cũng may nhờ thượng thần kịp thời khôi phục toàn bộ pháp lực, hơn nữa, dường như còn tăng tiến không ít so với ngày xưa”.
Liễm Trần hơi khom người, đơn giản đáp lại một câu: “Tạ ơn bệ hạ không trị tội”.
“Miễn đi”. Ngọc Đế thoáng nghiêng mình về phía trước, nhìn như vui vẻ ôn hòa, nhưng mười đầu ngón tay vịn vào vương tọa thì gần như đang co giật: “Như vậy ta muốn hỏi một câu, theo như thượng thần, với những kẻ phản nghịch phạm thượng tác loạn hôm nay, cần phải xử trí như thế nào?”.
“Bẩm bệ hạ, để tránh tổn thương hòa khí, ta đã thi pháp khiến ba nghìn đệ tử Côn Lôn cùng tám mươi vạn đại quân Thiên đình, và cả năm vạn thiên binh thiên tướng đang tiến thẳng đến núi Côn Lôn dẹp loạn đều không thể động đậy, xin bệ hạ thứ cho ta tội tự ý hành động”. Liễm Trần lại cung kính khom người, không đợi Ngọc Đế đáp lại đã tự mình đứng thẳng, tiếp tục nói: “Căn cứ theo luật pháp Thiên đình, mưu đồ làm loạn là tội không thể tha. Chỉ là chúng tiên Côn Lôn đều là đồ đệ của Hồng Quân lão tổ, từ khi tam giới phân định đến nay đã không chịu sự ràng buộc của luật pháp Thiên đình. Huống chi, lần này cũng chỉ là hiểu lầm mà thôi. Cho nên theo ý ta, chi bằng hãy lệnh cho các vị ấy trở về hối lỗi, rồi mời Nguyên Thủy Thiên Tôn đóng thông đạo sơn môn lại. Sau này trừ khi được bệ hạ đích thân ban chiếu, nếu không thì không ai được tự ý rời khỏi Côn Lôn nửa bước, chẳng hay bệ hạ thấy biện pháp này có được hay không?”.
Ngọc Đế vui vẻ đồng ý: “Thượng thần nói rất hợp lòng ta, cứ làm như vậy đi!”.
“Tuân lệnh.”
“Thượng thần đã lập được công lớn, không biết nên phong thưởng thế nào đây?”
“Trước đây ta chưa được sự cho phép đã tự ý rời đi, lại khiến cho chuông Đông Hoàng bị hủy, vốn thân đang mang tội. Hôm nay được bệ hạ khoan hồng độ lượng không truy cứu tội cũ, ta đã cảm kích vô cùng rồi, chỉ mong có thể lập công chuộc tội. Nếu bệ hạ không chê, ta nguyện tiếp nhận chức vụ của Dương Tiễn, dùng pháp luận của Thiên đình, bảo vệ sự yên bình cho tam giới.”
Ngọc Đế im lặng hồi lâu, cuối cùng đáp lại một chữ: “Chuẩn[8]”.
[8] Chuẩn tấu, phê chuẩn, cho phép.
Liễm Trần ôm đàn cúi đầu, sửa lại cách xưng hô: “Thần, lĩnh chỉ!”.
Đến đây, tôi rốt cuộc dường như đã nghe thấy hồi chuông dạo đầu cho một màn kịch lớn vang lên, và cũng đã thấy được người hóa trang bước lên sàn diễn, rốt cuộc đã vào vai gì rồi.
(40)
“Thế nào, ngươi đã thỏa mãn với tất cả những gì vừa thấy chưa?”
Tôi lặng nhìn nét mặt đùa bỡn gian tà đầy vẻ lôi kéo điên rồ của người đàn ông trung niên, khẽ cử động đôi chân đã tê mỏi từ lâu, xích sang bên cạnh, ra vẻ nghiêm nghị không thể xâm phạm: “Lão tiền bối, xin hãy tự trọng”.
Ông ta cười to ba tiếng, cất kính Côn Lôn đi: “Được rồi, xem xong chuyện hay rồi, kết thúc công việc thôi!”.
Tôi ngồi chồm hỗm ở đó nhặt cành cây trên mặt đất lên vẽ một vòng tròn, vẽ xong lại ngẩng đầu chăm chú nhìn ông ta như muốn nói gì rồi lại thôi, vẽ thêm một vòng tròn nữa rồi lại nhìn một cái… Khi vẽ đến vòng tròn thứ chín, ông ta cuối cùng đã bị ánh mắt tha thiết của tôi hạ gục xin hàng, khoanh chân ngồi xuống trước mặt tôi, vung tay lên, lời ít ý nhiều: “Có chuyện gì thì mau nói đi!”.
Tôi lập tức chồm lên phía trước nịnh nọt: “Thật không hổ danh là lão anh hùng, thật sự rất có khí khái đàn ông!”.
Ông ta nhướn mày liếc xéo tôi: “Bộ dạng ti tiện của ngươi hợp khẩu vị ông đây quá mà”.
“Được ưu ái mà thất kinh[9], vô cùng cảm kích!”. Tôi tiếp tục nịnh nọt: “Xin hãy thu nhận, bao bọc và cho ta ăn!”.
[9] Được sủng ái mà lo sợ.
Ông ta nửa cười nửa không, hàm ý đầy sâu xa: “Chẳng lẽ ngươi không những muốn thần và yêu dan díu, mà còn muốn nuốt trọn cả thầy lẫn trò sao?”.
Tôi nghẹn ngào, cười ruồi: “Bảo sao ngay từ đầu ta đã thấy ông quen quen, quả nhiên…” .
“Lần trước ngươi chạy trốn như thỏ bị trúng tên, thế mà còn nhớ được khuôn mặt ta cơ đấy, làm khó ngươi rồi”
“Thất lễ, thất lễ”. Tôi cười xòa, thoáng dừng lại, ngập ngừng: “Ờm… Dạ Mặc cậu ta…”.
“Vẫn đang bế quan.”
“Ồ, vậy là tốt rồi”. Tôi vò đầu: “Bởi vì thằng nhóc đó chưa hề nói gì về ông cho ta nghe, cho nên…”.
“Tiểu tử đó chả biết gì hết.”
“… Hở?”
“Kỳ lạ lắm sao?”
“… Nếu như ta nói là kỳ lạ thì ông sẽ cảm thấy kỳ lạ sao…”
“Một người phàm bình thường mà thôi, sao lại phải biết những thứ không liên quan gì đến mình chứ?”
“… Định nghĩa của ông đối với hai chữ ‘người phàm’ và ‘bình thường’ có phải quá hiện đại cao cấp không?”
“Không cần biết hiện tại nó là cái gì, tương lai sẽ biến thành cái gì, theo ta thấy, nó mãi mãi cũng chỉ là loài người ngu xuẩn mà thôi.”
“… Sắc bén quá!”
“Khách khí rồi!”
“Vui lòng cho ta hỏi thêm một câu, có ai biết chuyện ông không chết không?”
“Trước đây có Dương Tiễn, hiện tại có ngươi.”
“Hết rồi?”
“Hết rồi.”
“… Ta thật sự… có tài đức gì đâu…”
“Cho nên về chuyện của ta, không phải nó nói cho ngươi biết, mà là ngươi sẽ nói cho nó biết.”
“Lúc nào?”
“Chờ nó xuất quan.”
“Sao ông không tự đi mà nói?”
“Ta xấu hổ.”
“… Thật là khó mà nhận ra.”
“Bởi vì mắt ngươi chột mà.”
“…”
Đối diện với sư phụ của Dạ Mặc, tôi chỉ có thể hít sâu một hơi, lặng lẽ tự an ủi mình, bị giật mình nhiều thành quen rồi thật ra cũng thấy hay hay…
Lấy lại tinh thần, tôi hăng hái nói tiếp: “Phải rồi, vì sao ông lại nhận Dạ Mặc làm đồ đệ thế?”.
Câu trả lời của ông ta vẫn giữ nguyên vẻ sắc sảo quen thuộc: “Bởi vì những đồ đệ khác của ta đều chết hết rồi”.
“… Hãy nén bi thương.”
“Đâu có”
Sau đó tôi đã có cơ hội để hỏi vấn đề mà mình đã nghi hoặc từ lâu: “Nhưng một lão thần tiên trên đỉnh Côn Lôn như ông sao lại dạy ra một đệ tử yêu quái chứ?”.
Ông ta nghe vậy liền cười ầm lên, vẫn hào sảng thoải mái, nhưng lại không giấu nổi vẻ đau thương phẫn uất đến tận xương tủy: “Nó muốn làm yêu quái, thì ta dạy nó làm yêu quái! Huống hồ thế nào là thần? Thế nào là yêu? Một bên làm vua một bên làm giặc mà thôi. Ta từng cố gắng thay đổi cơ cấu lối mòn cũ rích ngày càng thối nát đó, nhưng cuối cùng lại phát hiện, tam giới mục ruỗng thối nát này không thể chịu đựng được thêm một trận khói lửa để xây dựng lại trật tự mới. Cho nên chỉ có thể buông xuôi, cho nên chỉ có thể dùng vô số oan hồn để bù lấp những kẽ hở mục ruỗng đó, kéo dài hơi tàn cho một thế giới lung lay sắp đổ. Thế nào, có buồn cười không?”.
Tôi không cảm thấy buồn cười gì hết, chỉ thấy toàn thân lạnh run lên.
Lúc này tôi mới đột nhiên nhớ ra, thực ra ngày đó, đa số đệ tử Triệt giáo đều là các loài ác điểu dã thú tự tu luyện thành tinh, pháp thuật tu luyện cũng khác một trời một vực so với những người mang danh chính đạo tu luyện thành thần.
Cho nên sau khi bị tiêu diệt hoàn toàn sau chiến dịch Phong Thần, họ mới bị chụp lên mình tội danh bàng môn ngoại đạo tà bất thắng chính như vậy. Cho nên ở một mức độ nào đó, đệ tử Triệt giáo ngày đó hẳn là càng gần hơn với yêu.
Thông Thiên muốn thay đổi lề lối tam giới, cho nên đã dạy ra rất nhiều môn đồ cao thủ xuất thân là yêu quái để đối đầu với thần tiên thống trị Thiên đình, nhưng đến khi lực lượng đã đủ, lại phát hiện ra tất cả đều uổng công.
Cho nên ông ta chỉ có thể tự tay sắp đặt ra một trận đại chiến một vở kịch vui, thiêu rụi những kẻ quá xuất chúng để giữ gìn sự bình yên cho đại đa số những kẻ tầm thường.
Công bằng không? Rất công bằng.
Còn nữa, với năng lực của Thông Thiên, cho dù có phát hiện ra hiện tượng trời đất sụp đổ chậm hơn Dương Tiễn một chút, thì so với Dương Tiễn ông ta nhất định sẽ nhìn rõ hơn những khó khăn thậm chí là cả kết cục mà hắn sẽ phải đối mặt một khi đã quyết tâm cứu thế. Cho nên, mới để Dạ Mặc chuyển câu nói ấy đến cho hắn.
Nhưng mà, cho dù như vậy, dù biết rõ Dương Tiễn có thể rơi vào tình cảnh “chúng bạn xa lánh, sinh tử lưỡng nan”, ông ta cũng không hề có ý định ngăn cản.
Đây là lạnh lùng tàn nhẫn, hay là như Tên Nát Rượu nói, chẳng qua có một số việc, nhất định phải làm.
Giống như tại Mắt Bắc Hải, mặc dù Liễm Trần đã sắp xếp ổn thỏa việc dùng Hồng Liên nghiệp hỏa để áp chế lệ khí, nhưng vào thời khắc quan trọng cuối cùng vẫn nói rõ toàn bộ sự việc cho Vô Si biết, sau đó để hắn tự lựa chọn.
Cho dù Tên Mập Chết Tiệt xả thân cứu đời là do hắn cam tâm tình nguyện, nhưng chẳng phải Liễm Trần đã sớm nhìn rõ con đường duy nhất này của hắn sao?
Đúng là đã có suy nghĩ tính toán trước mà…
Tôi nhắm mắt cười đau khổ, sau đó ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đàn ông trung niên trước mặt, vị Thông Thiên giáo chủ ngày đó đã một tay sáng lập Triệt giáo, rồi lại một tay đẩy Triệt giáo vào cõi vạn kiếp không thể phục sinh, trong đầu hàng vạn những mạch suy nghĩ đang cuồn cuộn, nhưng lại chỉ biết im lặng không nói năng gì.
Ông ta ngửa người ra sau dựa vào thân cây, ngước mắt nhìn trời cao, giống như không có cảm xúc gì chậm rãi nói: “Nhưng vừa rồi nhìn đám đệ tử Xiển giáo vốn là những kẻ siêu nhiên đứng ngoài thế cuộc, vậy mà mới làm quan trên Thiên đình hơn nghìn năm, đã vì danh vị quyền thế của mình mà không chút do dự phản bội sư môn, thậm chí còn có khi sư diệt tổ, ta lại cảm thấy đám đệ tử của mình cứ chết quách đi cho xong, còn hơn phải sống cuộc đời khốn khổ như vậy”.
Tôi thầm thở dài, không nhắc lại quá khứ vốn đã sớm trở thành kết cục không thể thay đổi, cũng không nghĩ ngợi đúng sai gì nữa, chỉ xuôi theo câu chuyện trước mắt: “Thật ra cũng khó trách bọn họ, dù sao sau trận chiến ấy, Xiển giáo đã đóng chặt sơn môn tránh xa thế sự, cái đám được phong thần kia cũng không thấy quay lại thăm hỏi gì sư phụ sư tổ của mình, về cơ bản có thể coi như không còn dính dáng gì đến sư môn nữa. Có điều Ngọc Đế quả không đơn giản, chỉ bằng một câu nói mà đã có thể biết rõ ai là kẻ có thể lợi dụng sau này, ai là kẻ lập tức cần trừ bỏ, và ai có thể tạm thời dùng làm quân cờ để ngày sau từ từ tiêu diệt. May mà… bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ chực phía sau…”.
Côn Lôn lập thế đã mấy vạn năm, môn đồ nhiều vô số kể.
Mặc dù sau vài lần chiến loạn đã có không ít thương vong, nhưng đến nay cũng vẫn còn lại ba nghìn.
Nguyên Thủy Thiên Tôn – chưởng môn của Xiển giáo có mười hai đệ tử, mười hai vị ấy lại có vô số đồ tử đồ tôn, nhưng chỉ có Ngọc Đỉnh chân nhân, vì nhiều nguyên do mà cả đời chỉ thu nhận duy nhất một đệ tử, chính là Dương Tiễn.
Cho nên cũng không khó tưởng tượng, khi biết ái đồ duy nhất của mình bị hại chết, Ngọc Đỉnh sẽ có phản ứng kịch kiệt đến cỡ nào. Mà mười hai vị tiên Côn Lôn tình cảm đồng môn sâu sắc, tất sẽ không làm ngơ để ông ta một mình rơi vào nguy hiểm.
Đương nhiên việc quan trọng hơn, chính là các môn nhân của Hồng Quân lão tổ ai nấy đều có pháp lực mạnh mẽ không bị bất cứ thứ gì trói buộc vốn chưa từng coi Thiên đình ra gì. Cũng vì nguyên nhân này, bọn họ vẫn luôn là cái gai trong mắt, cái dằm trong thịt của Ngọc Đế, không thể không trừ được.
Thật ra cũng khó trách, bên cạnh giường mình, sao có thể cho phép người khác ngáy ngủ[10] được chứ?
[10] Câu thành ngữ của Trung Quốc, ý chỉ trong phạm vi thế lực hoặc lợi ích của mình thì không thể cho phép người khác xâm chiếm hay làm càn được.
Chắc hẳn, ngày đó Ngọc Đế cũng biết vương triều của mình có rất nhiều mầm mống tai hại, nên đã cố tình bổ nhiệm Dương Tiễn nhằm tiến hành chỉnh đốn cơ cấu một cách dứt khoát toàn diện.
Nhìn cảnh tam giới hỗn loạn, Dương Tiễn càng hiểu rõ, nếu cứ để mặc cho Thiên đình tiếp tục mục nát sao đọa thì sau này sẽ không còn cách nào ứng phó được với những hiểm nguy nữa. Huống chi dựa vào đó hắn có thể che chở cho muội muội mình được trọn đời an nhàn, nên hắn đã cố tình lĩnh mệnh.
Cái này gọi là, thuận mua vừa bán.
Sau đó, có rất nhiều biến hóa, tính toán mọi mặt.
Cuối cùng lấy cái chết của Dương Tiễn làm lý do, dựng nên một màn kịch kẻ gieo người gặt.
Ngọc Đế đoán chắc chúng tiên Côn Lôn nhất định sẽ lên trời làm loạn, bèn nhân cơ hội này lấy lý do diệt trừ nghịch tặc, triệu tập đại quân tiến hành thảo phạt âm mưu diệt cỏ tận gốc, đồng thời ông ta phái binh tiến đánh đỉnh Côn Lôn gần như đã không còn ai trấn giữ, đoạt lấy vùng đất quý hội tụ linh mạch của đất trời mà ông ta ao ước bấy lâu.
Mà Dương Tiễn há có thể không biết sư phụ coi trọng mình như thế nào, cho nên đã cùng với Liễm Trần, sắm vai chim sẻ được lợi sau cùng.
Dương Tiễn chết, Liễm Trần tiếp nhận chức vụ, đại quyền đã nắm chắc trong tay.
Xót xa thay cho Ngọc Đế đã tất bật cả nửa ngày, cuối cùng chẳng khác nào lấy giỏ tre múc nước. Đã vậy, rất có khả năng kẻ cao cao tại thượng trên vương tọa kia, từ nay sẽ mãi mãi khoác lên mình cái danh thùng rỗng vô dụng.
Ba ngày trước, Liễm Trần lên Côn Lôn, hẳn là vì muốn báo cho họ biết tin Dương Tiễn đã chết.
Có lẽ, y chưa hề nói với họ chuyện Dương Tiễn cam tâm tình nguyện dùng nguyên thần hóa vào đá núi, mà đem tất cả tội lỗi chụp lên đầu Ngọc Đế, nói ông ta vì lo sợ thần tử công cao uy hiếp quyền vị của mình nên đã cố ý bày mưu hãm hại Dương Tiễn.
Chúng tiên Côn Lôn ở ẩn đã lâu, không biết nhiều về những âm mưu quỷ kế tranh quyền đoạt lợi xung quanh mình, không cân nhắc tỉ mỉ, lại quen hành sự bất chấp hậu quả, hơn nữa ai nầy đều cậy tài mà ngông cuồng, cho rằng ngồi trên linh mạch bị người ghen ghét[11], căn bản không thể chấp nhận bị thống trị bởi bất cứ kẻ nào. Do đó, chẳng bằng cứ để kẻ đó đóng kín hoàn toàn thông đạo nối ra thế giới bên ngoài lại.
[11] Nguyên văn là “hoài bích kỳ tội”, là một điển tích của Trung Hoa, ý nói người có tài năng đức độ dễ bị người nghi ngờ rèm pha.
Như vậy, cho dù một ngày kia, thiên địa có thật sự sụp đổ trở về cõi hỗn độn, thì linh mạch Côn Lôn cũng sẽ không bị tổn hại gì.
Chuyện này, chính là điều mà ngày ấy Liễm Trần nói với tôi tại Quán Giang Khẩu – mặc dù Dương Tiễn chết, nhưng cũng không hề thua.
Chỉ là, Dương Tiễn sau cùng đã tính kế cả với chính sư phụ ơn sâu nghĩa nặng của mình.
Còn Liễm Trần, sau cùng cũng đã lợi dụng cả những người bằng hữu không mảy may phòng bị của mình.
Một tiếng xin lỗi, nào có tác dụng…
Tôi lắc đầu, vô thức bẻ gãy cành cây trong tay thành nhiều đoạn, suy nghĩ một lát, lại hỏi: “Nhưng theo ta được biết, công lực của Liễm Trần chưa khôi phục hoàn toàn, tuy y có đàn Phục Hy, nhưng e rằng ngay cả Dạ Mặc y cũng đánh không lại, thì làm sao chỉ gảy một khúc nhạc mà đã có thể đối phó được mấy chục vạn đại quân cùng đám tiên Côn Lôn sừng sỏ chứ?”.
“Cho nên thứ thật sự có tác dụng là một loại khôi lỗi trùng[12] dị thế…”. Người đàn ông trung niên trước mắt – vị Thông Thiên Giáo Chủ một thời kia vươn vai một cái, đứng lên: “Dương Tiễn và Lục Áp[13] đã tìm cơ hội chia nhau nghĩ cách gieo loại trùng này lên người thiên binh thiên tướng và chúng tiên Côn Lôn, chỉ cần tiếng đàn Phục Hy vang lên, thì có thể lập tức khống chế thần trí họ. Có điều chỉ có thể duy trì được trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó sẽ tự biến mất, không còn sót lại dấu vết nào”.
[12] Khôi lỗi trùng có thể hiểu là loại sâu nghe theo mệnh lệnh người điều khiển.
[13] Lục Áp đạo nhân, là một nhân vật trong “Phong Thần Diễn Nghĩa”, không có giáo phái, tự xưng là người tu đạo ở Tây Côn Lôn. Ông thường cứu giúp các vị thần tiên trong lúc nguy cấp, không ai rõ đạo hạnh của ông nông sâu ra sao. Vị tiên này khá bí ẩn, tự xưng là tán tiên (ông tiên chơi bời). Sau khi Vạn Tiên Trận bị phá, ông giống như các vị tiên khác, trở về núi tu hành, lúc sắp đi có đem thanh Trảm Tiên Phi Đao tặng cho Khương Tử Nha.
“Dị thế?”
“Ngoài ba mươi ba cõi trời.”
Tôi há hốc mồm: “Vậy Lục Áp…”.
“Chính là Tên Nát Rượu đã nuôi lớn ngươi.”
“Mẹ kiếp!”
Vế sau của “Tiên hữu Hồng Quân hậu hữu thiên”, chính là “Lục Áp đạo nhân thượng tại tiền”.
Nói cách khác, Hồng Quân lão tổ đã tồn tại từ trước khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, mà Lục Áp đạo nhân còn già hơn, lợi hại hơn cả lão tổ Hồng Quân.
Không ngờ thằng cha nát rượu chẳng ra gì đó lại có thân phận đặc biệt như vậy, mà thứ phế vật không đáng tin cậy như tôi lại được thằng cha thân phận đặc biệt ấy nuôi lớn… Tôi và đám đồng bọn nhỏ bé của tôi chắc đều phải kinh hồn mà chết mất!
Cho nên ngoại trừ câu “mẹ kiếp”, tôi thật sự không thể nghĩ ra từ nào khác có thể biểu đạt cõi lòng như Hoàng Hà vỡ đê lúc này của mình.
Thông Thiên thì lại không nhìn ra nỗi khiếp sợ và sự sụp đổ phát ra từ tận sâu đáy lòng của tôi lúc này, chỉ tung kính Côn Lôn trong tay lên xuống hai lượt, sau đó bỗng nhiên ném qua cho tôi: “Cái này cho ngươi cầm chơi”.
“… Quá quý giá thì phải.”
“Quý giá quái gì! Chả có tác dụng mẹ gì ngoài trò rình trộm.”
“… Tuy là nói vậy, nhưng bảo bối rình trộm tốt xấu gì cũng có thể dùng để trông nhà lúc đi chơi xa mà…”
“Vậy chúc ngươi rình trộm vui vẻ, ta đi đây!”
Ông ta nói đi là đi, tôi thoáng ngây người rồi nhảy dựng lên: “Này này này, chờ ta cùng đi với!”.
“Không cùng đường.”
“Ông không trở về hang tuyết sao?”
“Ta về, ngươi không về”. Ông ta dừng bước, xoay người: “Kính Côn Lôn còn có một công dụng, đó là có thể dựa vào nguyên thần mà nhìn rõ kiếp trước kiếp này. Cho nên ngươi hãy làm sáng tỏ mọi chuyện đi rồi hãy trở lại tìm nó”.
Tôi sững sờ tại chỗ.
“Mặc dù tiểu tử ngốc đó có thể vì ngươi mà làm bất cứ chuyện gì, ngươi cũng không nên coi tất cả là chuyện đương nhiên”. Ông ấy tiếp tục bước đi, nhưng suy nghĩ một chút, lại cúi đầu nói: “Dẫu sao, hiện tại ta cũng chỉ còn có một đồ đệ này thôi”.
“Cho nên…”. Tôi thoáng ngập ngừng, cuối cùng vẫn hướng về bóng dáng đang đi xa dần của Thông Thiên hỏi lớn: “Ông cũng sẽ không giống như trước đây…”.
“Trước đây, ta mang theo đồ đệ đi tìm cái chết!”. Giọng nói khàn khàn của ông ta lọt vào tai tôi không sót một chữ: “Nhưng hiện tại thứ ta tìm, chỉ có đường sống mà thôi”.