Không Có Ngày Mai

Chương 34




TÔI ĐỨNG LÊN KHỎI GHẾ và theo các biển chỉ dẫn bằng đồng tới trung tâm tiện ích văn phòng của khách sạn Sheraton. Tôi không thể vào được, cần có chìa khóa cửa. Tôi đứng loanh quanh ở cửa ba phút thì một tay khác xuất hiện. Anh ta mặc com lê và trông mất hết kiên nhẫn. Tôi ra vẻ loay hoay lục hết các túi quần, sau đó bước sang một bên và ngỏ lời xin lỗi. Tay kia bước thẳng lên trước mặt tôi, tra chìa khóa của mình vào và mở cửa, tôi bước theo sau anh ta.

Trong phòng có bốn ô làm việc giống hệt nhau. Mỗi ô đều có một bàn, một ghế, một máy tính và một máy in. Tôi ngồi cách khá xa ông bạn kia và chấm dứt chế độ chờ của máy tính bằng cách gõ vào phím cách. Đến giờ thì vẫn ổn. Tôi nhìn các biểu tượng trên màn hình và chẳng hiểu ý nghĩa của chúng là mấy. Nhưng tôi phát hiện ra rằng khi di con trỏ lên phía trên chúng, như thể ta đang lưỡng lự hay suy tính, một bảng sẽ hiện lên bên cạnh đó. Bằng cách ấy tôi tìm được chương trình vào Internet và bấm đúp chuột. Ổ cứng trả lời nhanh chóng và trình duyệt mở ra. Nhanh hơn nhiều so với lần gần đây nhất tôi dùng máy tính. Có lẽ công nghệ đang thực sự phát triển. Ngay trên trang chủ là một đường dẫn tắt tới Google. Tôi bấm vào đó, trang tìm kiếm của Google hiện ra. Một lần nữa, rất nhanh. Tôi gõ Điều lệnh quân đội vào hộp thoại và bấm phím nhập dữ liệu. Màn hình ẩn đi một lát rồi cho tôi cả một trang đầy những tùy chọn.

Trong năm phút tiếp theo, tôi bấm chuột, kéo trang và đọc.

Tôi trở lại sảnh lúc 11 giờ kém 10. Ghế của tôi đã có người ngồi. Tôi đi ra vỉa hè, đứng trong nắng. Tôi nghĩ là Sansom sẽ đến bằng chiếc Town Car và đi vào bằng cửa trước. Ông ta không phải ngôi sao nhạc rock. Ông ta cũng chẳng phải Tổng thống. Ông ta sẽ không vào qua bếp hay nơi bốc dỡ hàng. Mục đích của ông ta là được người khác nhìn thấy. Nhu cầu vào các nơi một cách bí mật là giải thưởng ông ta chưa giành được.

Ngày nóng. Nhưng đường phố sạch sẽ. Không bốc mùi. Ở góc phố phía Nam tôi có hai cảnh sát, ở góc phố phía Bắc có một cặp khác. Triển khai lực lượng đúng quy chuẩn NYPD, ở mạn giữa thành phố. Tích cực và có tác dụng trấn an. Nhưng không hẳn hữu ích, nếu như tính đến tính đa dạng của các mối đe dọa tiềm tàng. Bên cạnh tôi, các khách rời khách sạn đang chui vào xe taxi. Nhịp sống của thành phố diễn ra không ngừng nghỉ. Dòng xe cộ trên đại lộ Bảy trôi đi, dừng lại ở cột đèn giao thông, rồi lại trôi tiếp. Dòng xe cộ trên đường cắt ngang trôi đi, dừng, và lại tiếp tục. Khách bộ hành dồn lại ở các góc phố rồi ào về phía vỉa hè đối diện. Còi kêu, xe tải gầm, ánh mặt trời đập vào các tấm kính trên cao rồi bắn mạnh xuống dưới.

Sansom đến bằng một chiếc Town Car lúc 11 giờ 05. Biển địa phương, nghĩa là ông ta đã đi phần lớn chặng đường bằng tàu hỏa. Kém tiện lợi hơn cho ông ta nhưng cũng thải ít carbon hơn so với chạy xe hoặc bay chừng ấy quãng đường. Trong một cuộc vận động tranh cử, mọi chi tiết đều có ý nghĩa. Chính trị là một bãi mìn. Springfield leo ra khỏi ghế bên cạnh tài xế thậm chí trước khi xe dừng hẳn, rồi Sansom cùng vợ leo ra từ băng ghế sau. Họ đứng trên vỉa hè một giây, sẵn sàng tỏ vẻ lịch sự khi có người chào đón, sẵn sàng không tỏ ra thất vọng nếu không có. Họ lướt qua các gương mặt rồi trông thấy tôi, Sansom trông hơi bối rối còn cô vợ trông hơi lo lắng, Springfield tiến về phía tôi, song bằng một cử chỉ nhỏ Elspeth ngăn anh ta lại. Tôi đoán là đối với trường hợp của tôi bà ta tự giao cho mình chức danh sĩ quan hạn chế tổn thất. Elspeth bắt tay tôi như thể tôi là một người bạn cũ. Bà ta không bình phẩm gì về chiếc sơ mi của tôi. Thay vào đó bà ta ghé người sát lại hỏi, “Ông cần nói chuyện với chúng tôi sao?”

Đó là một ngón điều tra hoàn hảo của một vợ chính trị gia. Bà ta dồn vào từ cần tất cả mọi hàm ý. Cách nhấn mạnh của bà ta phân loại tôi vừa trở thành một đối thủ vừa là một kẻ hợp tác. Bà ta đang nói rằng, Chúng tôi biết rằng ông có những thông tin có thể gây hại cho chúng tôi, và chúng tôi căm ghét ông vì điều đó, song chúng tôi thực sự cảm kích nếu ông đủ tốt để bàn với chúng tôi trước tiên, trước khi công bố chúng.

Thực tế là cả một bài luận, chứa đựng chỉ trong một âm tiết ngắn. Tôi nói, “Vâng, chúng ta cần nói chuyện.” Springfield cau có song Elspeth mỉm cười với tôi như thể tôi vừa hứa dành cho bà ta cả trăm ngàn phiếu bầu, rồi nắm lấy cánh tay tôi đưa tôi vào trong. Nhân viên khách sạn chẳng biết hay chẳng quan tâm Sansom là ai trừ việc ông ta là diễn giả của một nhóm đang thanh toán một khoản lớn tiền thuê phòng khiêu vũ, thế nên họ huy động toàn bộ sự nhiệt tình giả tạo và đưa chúng tôi tới một phòng đợi riêng rồi xăng xái chạy quanh với những chai nước có ga âm ấm, các bình chứa cà phê loại loãng. Elspeth đóng vai trò chủ nhà. Springfield không nói gì. Sansom nghe một cú điện thoại do người đứng đầu văn phòng ở Washington gọi vào máy di động. Họ nói chuyện trong bốn phút về chính sách kinh tế, rồi thêm hai phút về chương trình làm việc buổi chiều. Từ đó có thể thấy rõ rằng Sansom sẽ trở lại thẳng văn phòng sau bữa trưa, chuẩn bị cho một buổi chiều đầy công việc. Sự kiện diễn ra ở New York là một buổi chạy sô nhanh gọn, không hơn. Kiểu như một chạy xe qua rồi cướp.

Đám người của khách sạn đã xong việc, Sansom bấm phím kết thúc cuộc gọi và căn phòng trở nên yên lặng. Khí nén rì rì qua các van vào trong phòng giữ cho nhiệt độ thấp hơn mức tôi thích. Trong một khoảng thời gian ngắn chúng tôi im lặng nhấp nước và cà phê. Rồi Elspeth Sansom mở đầu cho màn mặc cả. Bà ta nói, “Có thông tin gì về cậu bé mất tích không?”

Tôi nói: “Có một chút. Nó đã bỏ buổi tập bóng, điều rõ ràng là hiếm khi xảy ra.”

“Ở USC à?” Sansom hỏi. Ông ta có trí nhớ tốt. Tôi đã nhắc tới USC chỉ một lần mà chỉ thoáng qua. “Đúng, chuyện đó thì hiếm.”

“Nhưng rồi nó đã gọi cho huấn luyện viên và để lại lời nhắn.”

“Khi nào?”

“Đêm qua. Vào giờ ăn tối bên bờ Đông.”

“Và sao?”

“Rõ ràng là nó đang ở cùng một phụ nữ.”

Elspeth nói, “Thế thì ổn rồi.”

“Tôi thì tôi mong đó là cuộc nói chuyện diễn ra trực tiếp. Hoặc một cuộc gặp trực diện.”

“Một lời nhắn không đủ tốt cho ông sao?”

“Tôi là người đa nghi.”

“Vậy ông muốn nói chuyện về vấn đề gì?”

Tôi xoay qua Sansom hỏi, “Năm 1983 ông ở đâu?”

Ông ta ngừng lại, chỉ một chút, rồi điều gì đó lướt qua đôi mắt. Không phải sốc, tôi nghĩ. Không phải ngạc nhiên. Có lẽ là cam chịu. Ông ta nói, “Năm 1983 tôi mang hàm đại úy.”

“Đó không phải điều tôi hỏi ông. Tôi hỏi là ông ở đâu.”

“Tôi không thể nói cho anh.”

“Ông có ở Berlin không?”

“Tôi không thể nói cho anh.”

“Ông bảo tôi rằng ông không có chút tì vết nào mà. Ông vẫn giữ nguyên ý kiến đó chứ?”

“Hoàn toàn thế.”

“Có điều gì về ông mà vợ ông không biết không?”

“Rất nhiều điều. Nhưng không gì mang tính riêng tư.”

“Ông chắc không?”

“Chắc.”

“Ông đã bao giờ nghe cái tên Lila Hoth chưa?”

“Tôi đã bảo anh là tôi chưa từng mà.”

“Ông đã bao giờ nghe cái tên Svetlana Hoth chưa?”

“Chưa bao giờ,” Sansom nói. Tôi đang quan sát nét mặt ông ta. Rất bình thản. Ông ta trông hơi khó chịu, nhưng ngoài cái đó ra thì ông ta không thể hiện gì.

Tôi hỏi ông ta, “Trước tuần này ông đã biết về Susan Mark chứ?”

“Tôi đã bảo anh rằng tôi không biết mà.”

“Năm 1983 ông được tặng một huy chương phải không?”

Sansom không trả lời. Căn phòng một lần nữa yên lặng. Rồi điện thoại di động của Leonid trong túi tôi đổ chuông. Tôi cảm thấy rung rồi một âm thanh điện tử lớn vang lên. Tôi lật đật lôi điện thoại ra nhìn vào màn hình nhỏ phía trước. Một số có đầu 212. Đúng số đã có trong mục quản lý cuộc gọi. Khách sạn Four Seasons. Chắc là Lila Hoth. Tôi tự hỏi liệu Leonid vẫn mất tích hay anh ta đã trở về kể chuyện cho cô nghe và bây giờ Lila đang gọi cho chính tôi.

Tôi giữ đại các phím cho tới khi chuông ngừng rồi cho điện thoại vào lại túi. Tôi nhìn Sansom nói, “Tôi xin lỗi.”

Ông ta nhún vai, như thể những lời xin lỗi là không cần thiết.

Tôi hỏi, “Năm 1983 ông được tặng một huy chương phải không?”

Ông ta nói, “Tại sao điều đó lại quan trọng?”

“Ông biết 600-8-22 là gì không?”

“Có lẽ là một điều lệnh của quân đội. Tôi không biết nội dung chính xác của chúng.”

Tôi nói, “Cho tới giờ chúng ta cho rằng chỉ một kẻ đần độn mới trông chờ một nhân viên HRC có được thông tin có ý nghĩa về các chiến dịch của lực lượng Delta. Và tôi nghĩ ta đúng phần lớn. Nhưng cũng có một chút sai. Tôi nghĩ một người thực sự khôn ngoan cũng có thể trông đợi điều đó một cách có cơ sở, nếu tư duy khác bình thường một chút.”

“Bằng cách nào?”

“Hãy giả sử một kẻ nào đó biết chắc chắn rằng một chiến dịch của Delta đã diễn ra. Coi như họ biết chắc rằng nó đã thành công.”

“Thế thì họ sẽ không cần thông tin, bởi họ đã có nó rồi.”

“Giả sử họ muốn khẳng định danh tính của sĩ quan chỉ huy chiến dịch đó thì sao?”

“Họ sẽ không có được điều đó từ HRC. Chỉ vì không thể. Các mệnh lệnh và tài liệu về triển khai quân cũng như báo cáo sau khi kết thúc chiến dịch đều được xác định độ mật và giữ ở Fort Bragg một cách cẩn mật.”

“Nhưng chuyện gì xảy ra với các sĩ quan chỉ đạo các chiến dịch thành công?”

“Anh nói cho tôi nghe đi.”

“Họ được tặng huy chương,” tôi nói. “Chiến dịch càng lớn thì huy chương càng cao. Điều lệnh 600-8-22, mục 1, đoạn 9, tiểu mục D, yêu cầu Cục Nhân lực duy trì việc ghi lại chính xác mỗi một trường hợp đề nghị khen thưởng, và các quyết định xuất phát từ những khen thưởng đó.”

“Có thể,” Sansom nói. “Nhưng nếu đó là một phi vụ của Delta, tất cả các chi tiết sẽ bị xóa bỏ. Bản tuyên dương sẽ được chỉnh sửa, địa điểm sẽ được thay đổi, hành động được khen thưởng sẽ không được mô tả.”

Tôi gật đầu. “Tất cả hồ sơ ghi lại sẽ là một cái tên, một ngày, một phần thưởng. Không có gì khác.”

“Chính xác thế.”

“Đó là tất cả những gì một người khôn ngoan suy nghĩ theo kiểu khác thường đôi chút thực sự cần, đúng không? Một phần thưởng chứng tỏ một điệp vụ đã thành công, thiếu bản tuyên dương chứng tỏ đó là một phi vụ bí mật. Lấy ngẫu nhiên một tháng, coi như đầu năm 1983 đi. Có bao nhiêu huy chương đã được ban tặng?”

“Vài ngàn. Tính riêng Huy chương Thành tích tốt đã có tới vài trăm rồi.”

“Bao nhiêu chiếc hạng Sao Bạc?”

“Không nhiều lắm.”

“Nếu như có,” tôi nói. “Đầu năm 1983 không diễn ra nhiều sự kiện. Có bao nhiêu DSM[35] đã được trao tặng? Bao nhiêu DSC[36]? Tôi dám cá là hồi đầu năm 1983 loại này hiếm hơn vàng.”

Elspeth Sansom cựa người trên ghế, nhìn tôi mà nói, “Tôi không hiểu.”

Tôi xoay người về phía bà ta nhưng Sansom nhấc một bàn tay lên và ngắt lời tôi. Ông ta trả lời thay tôi. Giữa họ không có bí mật nào cả. Không có sự cảnh giác. Ông ta nói, “Đó là một dạng cửa sau. Thông tin trực tiếp hoàn toàn không có, song thông tin gián tiếp thì có đầy ngoài kia. Nếu ai đó biết rằng một phi vụ của Delta đã diễn ra và thành công, biết thời điểm diễn ra, thì người nào nhận huy chương cao nhất trong tháng đó mà không có lời giải thích có lẽ đã chỉ huy phi vụ ấy. Tìm kiểu ấy sẽ không hiệu quả trong thời chiến, bởi các huy chương cao quý quá phổ biến. Nhưng trong thời bình, khi chẳng có chuyện gì khác diễn ra, một phần thưởng lớn sẽ lòi ra ngay thôi.”

“Chúng ta đánh chiếm Grenada năm 1983,” Elspeth nói. “Delta có ở đó.”

“Tháng Mười,” Sansom nói. “Việc đó gây thêm chút nhiễu cho giai đoạn cuối năm. Nhưng chín tháng đầu năm thì cực kỳ yên ổn.”

Elspeth Sansom nhìn đi chỗ khác. Bà ta không biết chồng mình làm gì trong chín tháng đầu năm 1983. Có lẽ bà ta sẽ không bao giờ biết. Elspeth nói, “Vậy ai đang là người tìm hiểu?”

Tôi nói, “Một cựu chiến binh già tên Svetlana Hoth, tự xưng từng là chính trị viên Hồng quân. Không có những chi tiết thực, nhưng bà ta nói rằng bà ta biết một lính Mỹ tên John ở Berlin năm 1983. Bà này nói rằng người lính đó rất tốt với bà ta. Và việc tìm hiểu chuyện ấy thông qua Susan Mark chỉ có lý nếu như có sự liên quan tới một phi vụ, tay John đó đã chỉ huy và được tặng huy chương vì phi vụ ấy. FBI đã tìm thấy một mẩu giấy trong xe của Susan. Kẻ nào đó đã cung cấp cho cô ấy điều lệnh, mục, đoạn ấy để biết chính xác nơi cần tìm.”

Elspeth liếc Sansom, vẻ miễn cưỡng, trên mặt hiện lên câu hỏi mà bà ta biết sẽ không bao giờ nhận được câu trả lời: Anh đã nhận được một huy chương cho một việc anh đã thực hiện ở Berlin năm 1983 phải không? Sansom không trả lời. Thế nên tôi thử. Tôi hỏi thẳng ông ta, “Ông đã tham gia một điệp vụ ở Berlin năm 1983 phải không?”

Sansom nói: “Anh biết là tôi không thể nói cho anh điều ấy.” Rồi có vẻ ông ta mất kiên nhẫn với tôi, ông ta nói: “Anh có vẻ giống một kẻ khôn ngoan. Hãy nghĩ về điều ấy. Vì Chúa, loại chiến dịch nào Delta có thể thực hiện ở Berlin năm 1983 chứ?”

Tôi nói, “Tôi không biết. Như tôi nhớ thì hồi ấy đám các ông rất cố gắng ngăn chặn những người như tôi tìm hiểu việc các ông làm. Và dù sao thì tôi cũng không thực sự quan tâm. Đây tôi chỉ cố giúp ông một việc. Chỉ thế thôi. Giữa anh em sĩ quan với nhau. Vì tôi cho rằng chuyện gì đó sẽ bị xới lại mà gây hại cho ông, tôi nghĩ có thể ông sẽ đánh giá cao một lời cảnh báo.”

Sansom bình tĩnh lại rất nhanh. Ông ta hít thở vài lần rồi nói, “Tôi thực sự cảm kích về lời cảnh báo. Và tôi chắc rằng anh hiểu tôi không thực sự được phép phủ nhận bất kỳ điều gì. Bởi, xét về mặt logic, phủ nhận một điều đồng nghĩa với khẳng định một điều khác. Nếu tôi phủ nhận Berlin và tất cả những nơi khác mà tôi không có mặt, thì cuối cùng bằng phương pháp loại trừ anh sẽ tìm ra nơi tôi đã ở. Nhưng tôi sẽ mạo hiểm một chút, bởi tôi nghĩ ở đây chúng ta đều cùng phe cả. Thế nên hãy lắng nghe, chiến hữu ạ. Tôi không có mặt ở Berlin vào bất kỳ thời điểm nào trong năm 1983. Tôi không hề gặp một phụ nữ Nga nào trong năm 1983. Tôi không nghĩ rằng mình đã rất tốt với ai, trong suốt cả năm đó. Có rất nhiều tay trong quân đội mang tên John. Berlin là một điểm du lịch có tiếng. Người mà anh đang nói tới đang tìm kiếm một người nào đó khác. Chuyện đơn giản là thế.”

Bài nói ngắn của Sansom đọng lại trong không khí một lúc. Tất cả chúng tôi nhấp đồ uống và ngồi im lặng. Rồi Elspeth Sansom nhìn đồng hồ đeo tay, ông chồng thấy bà ta làm thế liền nói, “Giờ anh phải thứ lỗi cho chúng tôi. Hôm nay chúng tôi có buổi quyên góp rất quan trọng cần thực hiện. Springfield sẽ rất vui được tiễn anh.” Tôi nghĩ đây là một đề nghị kỳ quặc. Đây là khách sạn công cộng. Là nơi của tôi cũng như của Sansom. Tôi có thể tìm đường ra, và tôi có quyền làm việc ấy. Tôi sẽ không đánh cắp thìa, và dù cho tôi có làm việc ấy đi nữa, đó cũng chẳng phải thìa của Sansom. Nhưng rồi tôi cho rằng ông ta muốn sắp xếp chút thời gian yên tĩnh cho Springfield và tôi, ở một hành lang tách biệt nào đó. Có lẽ để bàn bạc thêm, hoặc để trao một thông điệp. Thế nên tôi đứng dậy đi thẳng phía cửa. Không bắt tay hay chào tạm biệt. Có vẻ kiểu chia tay ấy không hợp.

Springfield theo tôi ra sảnh. Anh ta không nói gì. Dường như anh ta đang nhẩm lại gì đó. Tôi ngừng lại đợi, anh ta bắt kịp tôi liền nói: “Ông cần từ bỏ toàn bộ chuyện này.”

Tôi hỏi, “Tại sao, nếu như ông ta đã không ở đó?”

“Bởi để chứng minh rằng ông ấy không có mặt ở đó, ông sẽ bắt đầu hỏi rằng không ở đó thì ở đâu. Tốt hơn là không bao giờ ông biết.”

Tôi gật đầu. “Đối với ông thì đây cũng là chuyện riêng, phải không? Bởi ông cũng ở đó cùng ông ta. Ông đã tới bất kỳ nơi nào ông ta tới.”

Springfield cũng gật. “Hãy để cho nó qua đi. Ông không thể lật được tảng đá không vừa với sức ông đâu.”

“Sao lại không?”

“Bởi nếu ông làm thế thì ông sẽ bị xóa bỏ. Ông sẽ không tồn tại thêm chút nào nữa. Ông sẽ chỉ biến mất, cả về thể xác lẫn trên giấy tờ. Bây giờ chuyện đó có thể xảy ra, ông biết mà. Đây là một thế giới hoàn toàn mới. Tôi rất muốn nói rằng tôi sẽ tham gia vào quy trình ấy, nhưng tôi sẽ chẳng có cơ hội. Thậm chí gần có cũng không. Bởi một đám người khác có mặt trước để túm ông. Tôi sẽ tụt lại xa đến mức thậm chí giấy khai sinh của ông sẽ trắng trơn trước khi tôi đến được bất kỳ chỗ nào đó gần ông.”

“Đám người khác nào?”

Anh ta không trả lời.

“Chính phủ à?”

Anh ta không trả lời.

“Đám nhân viên điều tra liên bang ấy à?”

Anh ta không trả lời. Chỉ quay người bước về phía thang máy. Tôi bước ra vỉa hè đại lộ Bảy và trong túi tôi điện thoại của Leonid lại đổ chuông lần nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.