Đấu Trường Sinh Tử 2: Bắt Lửa

Chương 22




22.1

Peeta vứt chiếc bao tên xuống và cắm ngập dao vào lưng con khỉ, đâm liên tiếp cho tới khi nó nhả ra những chiếc răng nanh. Cậu ấy đá văng con mút, chống đỡ với những con khác. Giờ tôi đã lấy được các mũi tên, cung đã lên dây và Finnick đứng sau lưng, hít thở khó khăn nhưng không chiến đấu tích cực được.

“Được rồi, đi nào! Đi !” Peeta hét lên, thở hồng hộc trong cơn giận dữ. Nhưng có gì đó với bọn khỉ. Chúng đang rút lui, trèo lại lên cây, mất hút trong khu rừng như thể có một giọng nói mơ hồ nào đó gọi chúng đi. Giọng nói của một nhà tổ chức, nói với chúng rằng thế là đủ rồi.

“Đỡ cô ấy đi,” Tôi nói với Peeta. “Bọn này sẽ yểm hộ.”

Peeta nhẹ nhàng nâng con nghiện morphine dậy và cõng cô ta đi vài yard ra bờ biển trong khi Finnick và tôi giữ vũ khí sẵn sàng. Nhưng ngoại trừ vài xác chết lông cam kiệt quệ trên đất, những con khỉ khác đã bỏ đi. Peeta đặt cô gái trên cát. Tôi cắt bỏ chỗ vải trên ngực cô ta, để lộ ra bốn vết thương đâm thủng sâu hoắm. Máu dần dần nhỏ ra từ chỗ đó, khiến chúng trông ít nguy hiểm hơn nhiều. Vết thương thực sự là ở bên trong.

Tại vị trí các vết rách, tôi chắc chắn rằng con thú đã cắn vết chí mạng, vào phổi, có thể còn vào tim.

Cô ta nằm trên cát, thở hắt ra như con cá bị quẳng ra khỏi nước. Làn da võng xuống, xanh mét, những chiếc xương sườn nhô lên như của đứa trẻ chết đói. Chắc chắn cô ta có thể kiếm nổi thức ăn, nhưng lại đâm đầu vào morphine như ông Haymitch đâm đầu vào rượu, tôi đoán thế.

Mọi dấu hiệu kiệt quệ của cô ta – cơ thể, cuộc sống và cái nhìn trống rỗng trong mắt. Tôi nắm lấy bàn tay co quắp, không rõ nó thò ra từ chỗ chất độc ảnh hưởng tới hệ thần kinh, cú sốc tấn công hay được rút ra từ đống thuốc phiện mà cô ta dùng sống qua ngày. Chúng tôi chẳng thế làm gì. Không gì ngoài ở lại với cô ta cho tới khi qua đời.

“Tôi sẽ trông chừng đám cây.” Finnick nói trước khi bỏ đi. Tôi cũng muốn đi nhưng cô ấy ghìm tay tôi quá chặt đến nỗi tôi phải gỡ những ngón tay ra và tôi còn chẳng đủ sức mạnh cho kiểu độc ác ấy. Tôi nghĩ tới Rue, rằng tôi đã có thể hát một bài hay gì đó. Nhưng tôi thậm chí còn không biết tên con nghiện morphine này, mặc kệ cô ta có thích hát hay không. Tôi chỉ biết cô ta đang chết.

Peeta cúi mình ở phía kia và vuốt tóc cô ấy. Khi cậu ấy nói chuyện bằng một giọng nhẹ bẫng, nó gần như là vô nghĩa nhưng những ngôn từ không phải dành cho tôi.

“Với hộp màu ở nhà tôi có thể chế ra nhiều màu. Hồng. Nhợt như da em bé. Hay thẫm như cây đại hoàng. Xanh như cỏ xuân. Lam lung linh như băng trên mặt nước.”

Con nghiện nhìn chăm chăm vào mắt Peeta, dõi theo lời nói của Peeta.

“Có một lần, tôi mất ba ngày để trộn đống màu cho tới lúc tìm được sắc màu đúng của ánh mặt trời in trên lông mao trắng. Cô thấy là, tôi vẫn nghĩ nó có màu vàng nhưng thật ra còn hơn thế. Từng lớp màu. Từng cái một,” Peeta nói.

Hơi thở của con nghiện chậm dần khó khăn. Bàn tay kia của cô ta vấy máu trên ngực, tạo thành những hình xoáy bé tý mà cô ta muốn vẽ.

“Tôi vẫn chưa tìm hiểu được cầu vồng. Chúng đến quá nhanh và đi quá mau. Tôi chưa khi nào đủ thời gian mà bắt được chúng. Chỉ có chút xanh lam hay tím đây đó thôi. Và rồi chúng lại mờ đi. Quay trở lại không khí.” Peeta nói.

Con nghiện morphine như bị thôi miên bởi những lời nói của Peeta. Bị mê hoặc. Cô ta nhấc bàn tay run rẩy và vẽ một hình mà tôi nghĩ là một bông hoa lên má Peeta.

“Cảm ơn,” cậu ấy thì thầm. “Thật đẹp.”

Trong một khắc, khuôn mặt của con nghiện hiện loáng thoáng một nụ cười nhăn nhở và tạo ra một âm thanh rúc rích. Rồi bàn tay sũng máu của cô ta rơi trở lại ngực, cô ấy phát ra một tiếng thở hắt cuối cùng và tiếng đại bác nổ lên. Cái ghì chặt trên tay tôi nới lỏng. Peeta bế cô ấy xuống nước. Cậu ấy trở lại và ngồi cạnh tôi. Con nghiện morphine trôi nổi về phía chiếc sừng dê một lúc rồi chiếc tàu đệm khí xuất hiện, bốn cái móc có ngạnh thò xuống, bọc quanh cô ấy, mang cô ấy trở lại vào bầu trời đêm rồi biến mất.

22.2

Finnick quay lại với chúng tôi, nắm tay đầy những mũi tên của tôi vẫn ướt đẫm máu khỉ. Anh ấy vứt chúng gần tôi trên cát. “Anh nghĩ có thể em cần chúng.”

“Cảm ơn.” Tôi đáp.

Tôi lội xuống nước và rửa sạch máu đông, từ vũ khí, từ những vết thương. Lúc quay lại rừng để nhặt nhạnh chút rêu lau khô chúng, toàn bộ xác khỉ đã biến mất.

“Chúng đi đâu rồi?” Tôi hỏi

“Bọn anh không biết chính xác. Các dây leo di chuyển và chúng biến mất.” Finnick trả lời.

Chúng tôi nhìn chằm chằm vào khu rừng, tê cóng và kiệt sức. Trong yên tĩnh, tôi để ý rằng chỗ những giọt sương đọng trên da tôi đã đóng vảy lại. Chúng ngừng gây đau đớn và bắt đầu ngứa ngáy. Ngứa dữ dội. Tôi cố nghĩ đây là một dấu hiệu tốt. Rằng chúng đang lành lại. Tôi lướt mắt qua Peeta, rồi Finnick và thấy cả hai đang gãi sột soạt lên khuôn mặt bị phá hủy. Vâng, thậm chí vẻ đẹp trai của Finnick cũng bị phá hủy trong tối nay.

“Đừng gãi.” Tôi nói dù rất muốn gãi. Nhưng tôi biết đây là lời khuyên mẹ tôi sẽ đưa ra. “Các cậu sẽ chỉ gây nhiễm trùng thôi. Có nghĩ sẽ an toàn nếu dùng nước lần nữa không?”

Chúng tôi cùng quay lại chỗ cái cây mà Peeta đã rạch. Finnick cùng tôi đứng đó với vũ khí treo thăng bằng trong khi cậu ta cắm cái máng vào nhưng không có mối đe dọa nào. Peeta tìm thấy hõm mạch gỗ thích hợp và nước bắt đầu phun ra từ chiếc máng. Chúng tôi làm dịu đi cơn khát, để dòng nước ấm áp đổ ào lên cơ thể đang ngứa ngáy. Chúng tôi đổ đầy nước vào một nhúm vỏ ốc và quay lại bờ biển. Trời vẫn tối dù rạng đông không còn bao lâu nữa là tắt ngúm. Nếu những nhà sản xuất không muốn nó thế. “Sao cả hai không nghỉ ngơi chút đi?” Tôi nói. “Em sẽ canh chừng một lúc.”

“Không Katniss, anh muốn gác.” Finnick đáp lại. Tôi nhìn vào mắt anh, mặt anh và nhận ra anh ấy không kìm được nước mắt. Mags. Ít nhất những gì tôi làm được là để cho anh ấy chút riêng tư để khóc thương cho bà.

“Được rồi, Finnick, cảm ơn anh.” Tôi đáp.

Tôi nằm trên cát cạnh Peeta, cậu thả người xuống ngay tức khắc. Tôi nhìn đăm đăm vào màn đêm, nghĩ về việc một ngày qua đã tạo nên khác biệt thế nào. Làm thế nào mà sáng hôm qua, Finnick còn nằm trong danh sách cần giết mà bây giờ tôi lại yên giấc trong điều kiện anh ấy là một người bảo vệ của tôi. Anh đã cứu Peeta và để bà Mags chết mà tôi không biết tại sao. Chỉ vậy mà tôi chẳng bao giờ lấy lại được cân bằng giữa chúng tôi. Tất cả những gì tôi làm được lúc này là đi ngủ và để anh ấy đau buồn trong yên bình. Và tôi cũng vậy.

22.3

Trời tảng sáng khi tôi mở mắt ra lần nữa. Peeta vẫn nằm bên cạnh. Phía trên chúng tôi, một thảm cỏ treo nơi cành cây ngăn chúng tôi khỏi ánh sáng mặt trời. Tôi ngồi dậy và thấy bàn tay Finnick vẫn bận rộn. Hai chiếc bát được dệt đựng đầy nước sạch. Cái thứ ba đựng một đống sò.

Finnick ngồi trên cát, đập chúng bằng một cục đá. “Chúng tươi sẽ ngon hơn,” anh nói, bóc một khoanh thịt từ con sò và nảy nó vào mồm. Mắt anh ấy vẫn sưng húp nhưng tôi giả vờ không để ý.

Dạ dày tôi sôi lên vì mùi thức ăn và tôi vươn tay ra lấy một chút. Cảnh những ngón tay đông máu khiến tôi ngưng lại. Tôi vẫn tiếp tục gãi làn da trầy máu khi ngủ.

“Em biết đấy, nếu em gãi sẽ gây nhiễm trùng.” Finnick đáp.

“Em vừa nghe được thôi.” Tôi đáp.

Tôi lội xuống chỗ nước muối và rửa vết máu đi, cố nghĩ xem tôi ghét gì hơn, bị đau hay bị ngứa. Khi chán ngấy, tôi nặng nề bước ra biển, ngẩng đầu lên và gầm gừ, “Này bác Haymitch, nếu bác không quá say, chúng cháu có thể dùng thứ gì đó với làn da rồi.”

Thật hài hước khi chiếc dù nhanh chóng xuất hiện trên đầu tôi. Tôi vói lên và chiếc ống đáp ngay trên bàn tay đang xòe. “Đúng lúc”, tôi nói nhưng không thể nén được giận dữ trên mặt. Với ông Haymitch. Với việc tôi không bỏ ra năm phút mà nói được với ông ấy.

Tôi nằm phịch xuống bãi cát cạnh Finnick và xoáy bật chiếc nắp ống. Bên trong chứa thuốc mỡ đặc sệt đen sì có mùi hăng, kết hợp của hắc ín và lá kim thông. Tôi nhăn mũi khi bóp ít thuốc lên lòng bàn tay và bắt đầu xoa lên chân. Một âm thanh thư giãn thốt ra khỏi miệng khi chất lỏng triệt tiêu cảm giác ngứa ngáy. Nó cũng nhuộm làn da đóng vảy của tôi một màu xanh xám rùng rợn. Khi tiếp tục chuyển sang bên chân thứ hai, tôi thảy ống tuýt tới chỗ Finnick, đang dòm tôi nghi hoặc.

“Như là em đang mục rữa ấy.” Finnick nói. Nhưng tôi đoán vết ngứa đã thắng vì sau một phút Finnick cũng chữa trị làn da của mình. Thật sự là hỗn hợp giữa vảy da và thuốc mỡ trông quá ghê tởm. Tôi không nhịn được việc thưởng thức sự khó chịu của anh ta.

“Tội nghiệp Finnick. Đây có phải lần đầu trong đời anh trông không hoàn hảo không?” Tôi nói.

“Chắc thế. Cảm giác hoàn toàn mới mẻ. Sao mà em vượt qua được nó suốt những năm qua?” anh hỏi.

“Chỉ là tránh những chiếc gương. Anh sẽ quên nó đi thôi.” Tôi nói.

“Sẽ không nếu như anh tiếp tục nhìn em.” Anh ấy đáp.

Chúng tôi thay nhau trị thương, bất kể việc luân phiên chà xát thứ thuốc mỡ lên lưng người kia nơi phần áo lót không bảo vệ được da thịt. “Em sẽ đánh thức Peeta.” Tôi nói

“Không, chờ đã.” Finnick lên tiếng. “Cùng làm việc này đi. Đặt mặt chúng ta ngay trước mặt cậu ta.”

Chà, thú thật là đời tôi còn lại cực ít cơ hội đùa giỡn. Chúng tôi ngồi ở hai bên sườn Peeta, dựa vào cho tới khi mặt chúng tôi áp sát mũi cậu ấy và lắc nhẹ.

“Peeta. Peeta, dậy đi.” tôi nói với một giọng nhỏ nhẹ, đều đều.

Mi mắt cậu ấy đung đưa mở ra và rồi nhảy lên như thể chúng tôi vừa đâm cậu ấy. “Aa!”

Finnick và tôi ngã ra sau trên mặt cát, cười ngặt nghẽo. Mỗi lần cố ghìm lại, chúng tôi lại nhìn vào cố gắng của Peeta để duy trì biểu lộ kinh khủng và nó lại khiến chúng tôi ngã ra.

22.4

Lúc cả bọn trấn tĩnh lại, tôi đã nghĩ rằng có lẽ Finnick Odair sẽ ổn cả. Ít nhất thì cũng không tự phụ hay kiêu ngạo như tôi nghĩ. Thật sự không tồi chút nào. Và đúng lúc tôi đi tới kết luận trên, một chiếc dù đậu lại cạnh chúng tôi với một ổ bánh mì mới ra lò. Nhớ lại năm ngoài những món quà của ông Haymitch thường được hẹn giờ để gửi tới một thông điệp thế nào, tôi tự rút ra dấu hiệu cho chính mình. Hãy là những người bạn của Finnick. Rồi bạn sẽ có thức ăn.

Finnick thảy chiếc bánh lên hai lòng bàn tay, kiểm tra vỏ bánh. Hơi có ý chiếm hữu. Thật không cần thiết. Nó có màu xanh của tảo biển mà bánh từ quận 4 luôn có. Chúng tôi đều biết nó là của anh ấy. Có lẽ anh ấy vừa mới nhận ra nó giá trị đến thế nào, và anh ấy có lẽ sẽ không thấy một ổ bánh mì nào khác nữa. Có lẽ phần kí ức về bà Mags nào đó đã gắn với lớp vỏ bánh. Nhưng tất cả những gì anh ấy nói là “Cái này sẽ hợp với món sò.”

Trong khi tôi giúp Peeta phủ làn da bằng lớp thuốc mỡ, Finnick khéo léo rửa sạch thịt từ con sò. Chúng tôi tụ tập vòng tròn và ăn món bánh mì muối ngọt mới ra từ quận 4.

Tất cả chúng tôi trông thật quái dị – thuốc mỡ dường như là nguyên nhân gây ra vài lớp vảy – nhưng tôi vui vì thứ thuốc đó. Không chỉ vì nó làm thuyên giảm cơn ngứa ngáy, mà vì nó bảo vệ tôi khỏi ánh sáng mặt trời trắng rực rỡ trên nền trời hồng.

Từ vị trí của mặt trời, tôi dự đoán nó chắc phải đi về phía 10h, nghĩa là chúng tôi đã ở trường đấu gần một ngày. Mười một người trong chúng tôi đã chết. Mười ba còn sống. Nơi nào đó trong khu rừng, mười người đã ẩn náu đi. Ba hay bốn kẻ là bọn nhà nghề. Tôi không thực sự muốn cố gắng nhớ những người khác là ai.

Với tôi, khu rừng nhanh chóng biến từ một nơi an toàn thành một cái bẫy nham hiểm. Tôi biết vào một thời điểm nào đó chúng tôi buộc phải sẽ tiến sâu vào rừng, dù để săn hay bị săn, nhưng ngay lúc này tôi định sẽ dính lấy bờ biển nhỏ bé. Tôi không nghe thấy Peeta hay Finnick gợi ý làm gì khác.

Trong chốc lát khu rừng gần như tĩnh lặng, kêu o o, mờ ảo nhưng không phô ra sự nguy hiểm của nó. Rồi, ở xa xa, vang tới tiếng thét gào. Ngang chỗ chúng tôi, một phần đất nhọn của khu rừng bắt đầu rung lên. Một con sóng khổng lồ nhô lên cao trên ngọn đồi, phủ lên hàng cây và gầm lên trượt xuống con dốc. Nó đánh vào nước biển ở đó với một lực như thế, dù chúng tôi ở quá xa để có thể cảm nhận được, con sóng nổi bọt tăm xung quanh mắt cá chân, đã khiến cho chút đồ vật ít ỏi của chúng tôi nổi lềnh phềnh. Với ba người, chúng tôi quyết định thu nhặt mọi thứ trước khi bị trôi đi xa, ngoại trừ ba bộ liền thân thủng lỗ chỗ, bởi chúng quá rách nát nên sẽ không ai để ý nếu chúng tôi có làm mất chúng.

Một tiếng đại bác nổ tung. Chúng tôi thấy chiếc tàu khí xuất hiện phía trên khu vực nơi ngọn sóng khởi đầu và gắp một thi thể từ đám cây. Mười hai rồi, tôi nghĩ thầm. Vòng xoáy nước dần ngừng lại, đang hấp thu trong con sóng khổng lồ. Chúng tôi sắp xếp lại các thứ trở lại trên nền cát ướt và gần như ngã người xuống khi tôi thấy chúng.

22.5

Ba bóng người, cách xa khoảng hai cái nan hoa, đang đi cà nhắc trên mặt bờ biển. “ Ở đó.” Tôi nói khẽ, hất cằm về hướng của những kẻ mới tới. Peeta và Finnick dõi theo cái nhìn chằm chằm của tôi. Như thể thống nhất trước, tất cả chúng tôi biến mất trở lại dưới bóng khu rừng. Bộ ba người trong hình dáng xấu xí – bạn có thể thấy ngay sau đó. Một thì gần như bị kéo lê bởi người thứ hai còn kẻ thứ ba đi loanh quanh thành hình vòng tròn điên loạn, như thể bị mất trí. Bọn họ có màu gạch đỏ sậm, như thể vừa được nhúng vào sơn và để ra ngoài cho khô.

“Ai thế?” Peeta hỏi. “Hay là cái gì thế? Bọn mút sao?”

Tôi kéo ra một mũi tên, sẵn sàng cho một cuộc tấn công. Nhưng tất cả những gì xảy ra là kẻ đang bị kéo lê đổ người xuống bờ biển. Kẻ kéo lê thì dậm chân xuống đất thất vọng và trong cơn tức giận, đã quay lại và xô đẩy nhóm người, lật một kẻ khác ngã nhào.

Khuôn mặt Finnick sáng lên. “Johanna ” anh ấy gọi và chạy về phía các vật thể màu đỏ.

“Finnick!” tôi nghe tiếng Johanna vọng lại.

Tôi trao đổi cái nhìn với Peeta. “Giờ thì sao?” tôi hỏi.

“Chúng ta không thể để Finnick lại.” Peeta đáp.

“Chắc là không. Đi nào.” Tôi nói cáu kỉnh, vì mặc dù tôi có cả đống đồng minh thì Johanna Mason chắc chắn không phải trong số đó.

Hai chúng tôi đi xuống bờ biển tới nơi mà Finnick và Johanna vừa mới gặp nhau. Khi tới gần hơn, tôi thấy những người bạn của cô ta, và sự bối rối kéo tới. Ông Beetee trên mặt đất và Wiress vừa mới thu chân lại để tiếp tục thắt nút.

“Cô ta đã tìm ra Wiress và Beetee.”

“Quả hạch và Vôn điện?” Peeta nói, bối rối y hệt. “Tớ vừa mới nghe sao lại xảy ra chuyện này thôi.”

22.6

Khi chúng tôi tới chỗ họ, Johanna đang khoa tay múa chân về phía khu rừng và nói rất nhanh với Finnick. “Bọn em nghĩ trời mưa, anh biết đấy, vì có chớp và tất cả bọn đều quá khát. Nhưng khi mưa bắt đầu dội xuống, nó hóa ra lại đầy máu. Máu đặc quánh, nóng bỏng. Anh không thấy đâu, anh không thể nói chuyện mà không đầy miệng được. Bọn em chỉ đi loanh quanh, cố thoát ra khỏi nó. Đó là lúc Blight va phải bức từ trường.”

“Anh xin lỗi, Johanna.” Finnick nói. Mất một giây để tìm thấy Blight. Tôi nghĩ anh ta là một bản sao nam của Johanna từ quận 7, nhưng tôi không nhớ đã nhìn thấy anh ta. Nghĩ tới điều đó, tôi thậm chí không nghĩ anh ta đã xuất hiện lúc huấn luyện.

“Phải, chà, anh ấy không được coi trọng, nhưng do tới từ quê nhà.” Cô ta nói. “Và anh ta bỏ em lại với hai người này.”

Johanna thúc Beetee, kẻ đang khó tỉnh lại, bằng mũi giầy. “Ông ta nhặt được con dao sau chiếc sừng dê. Còn bà ta…”

Tất cả chúng tôi liếc về Wiress, kẻ đang đi vòng vòng, người phủ máu khô và lầm bầm “Tích, tắc. Tích, tắc.”

“Phải, chúng ta đều biết. Tích, tắc. Quả hạch đang bị sốc.” Johanna nói. Việc này dường như là để kéo Wiress đi đúng hướng và bà ta nghiêng về phía Johanna – đang xô đẩy dữ dội. “Chỉ cần ở nguyên dưới nước, được chứ?”

“Thả bà ta đi,” tôi cáu kỉnh.

Johanna thu hẹp đôi mắt nâu nhìn tôi trong căm ghét.

“Thả bà ta?” Johanna rít lên. Cô ta bước lên trước khi tôi có thể phản ứng và vả tôi thật mạnh tới nỗi tôi bị choáng váng. “Mày nghĩ ai đã cứu chúng ra khỏi khu rừng máu cho mày hả? Mày –“

Finnick thảy cơ thể đang quằn quại của cô ta lên vai và vác ra chỗ mặt nước rồi liên tục nhúng xuống trong khi cô ta la hét những câu xúc phạm với tôi. Nhưng tôi không bắn. Vì cô ta đang ở cạnh Finnick và vì những điều cô ta đã nói, về việc tìm ra bọn họ giúp tôi.

“Cô ta có ý gì? Cô ta đã tìm ra bọn họ cho tớ?” tôi hỏi Peeta.

“Tớ không biết nữa. Cậu tìm họ trước tiên còn gì,” cậu ấy nhắc nhở tôi.

“Ừ, tớ có. Trước tiên.” Nhưng điều đó không giải đáp được gì. Tôi nhìn xuống cơ thể ì ạch của lão Beetee.

“Nhưng tớ sẽ không giữ chân họ được lâu nếu chúng ta không làm gì đó.”

Peeta nâng Beetee dậy bằng hai tay và tôi tóm lấy Wiress rồi chúng tôi quay lại chiếc lều nhỏ bên bờ biển. Tôi đặt Wiress ở chỗ nông để bà ấy có thể rửa ráy một chút, nhưng bà ấy chỉ nén chặt hai tay vào nhau và thỉnh thoảng lầm bầm “Tích, tắc”.

Tôi mở thắt lưng của Beetee và tìm thấy một xi lanh kim loại nặng trịch gắn vào một bên sườn với một dây thừng bện bằng dây leo. Tôi không biết nó là gì, nhưng nếu ông ta nghĩ nó đáng giữ thì tôi sẽ không phải là người làm mất nó. Tôi thảy nó lên mặt cát.

Quần áo ông Beetee dính chặt vào người cùng với máu, nên Peeta ôm ông ấy dưới nước trong khi tôi cởi chúng. Mất một lúc để cởi bộ đồ liền thân, và rồi chúng tôi thấy bộ đồ lót trong của ông ta cũng thấm đẫm máu. Không còn lựa chọn nào là cởi quần áo khiến ông ấy trần truồng để lau sạch, nhưng tôi phải nói rằng việc này không gây cho tôi ấn tượng được nữa. Chiếc bàn bếp nhà chúng tôi năm nay đầy những người trần truồng. Bạn sẽ quen với nó sau một thời gian.

Chúng tôi kéo chiếc chiếu của Finnick xuống và đặt úp Beetee để có thể kiểm tra phần lưng. Có một vết cắt tầm 6 inch chạy dọc theo bả vai trượt xuống dưới xương sườn. May là nó không quá sâu. Dù thế nhưng ông ta mất rất nhiều máu – bạn có thể thấy qua làn da tái nhợt – và nó vẫn rỉ ra khỏi vết thương. Tôi ngồi trên gót chân, cố gắng suy nghĩ. Tôi phải dùng cái gì đây? Nước biển? Tôi có cảm giác giống mẹ tôi khi công cụ chữa bệnh đầu tiên của bà là tuyết. Tôi nhìn lên khu rừng. Tôi cá có hàng đống cây dược ở đó nếu tôi biết cách dùng. Nhưng chúng không phải cây cỏ thuộc về tôi. Rồi tôi nghĩ tới đám rêu bà Mags đã cho tôi để xì mũi.

22.7

“Tớ quay lại ngay.” Tôi nói với Peeta. Thật may là loài cây này khá phổ biến trong rừng nhiệt đới. Tôi bóc một nắm rêu từ những cái cây gần đó và mang nó trở ra biển. Tôi làm một tấm đệm dày từ rêu, đặt nó lên vết cắt của Beetee và cố định nó bằng cách thắt dây leo quanh cơ thể ông ấy. Chúng tôi đổ ít nước lên và kéo ông ta vào bóng cây ở rìa rừng.

“Tớ nghĩ đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm rồi.” tôi nói.

“Khá đấy. Cậu giỏi trong vụ chữa bệnh này,” Peeta nói. “Nó ngấm vào máu cậu rồi.”

“Không”, tôi nói, lắc đầu. “Tớ mang dòng máu của bố.” Khi lòng tốt sục sôi lên trong một cuộc đi săn, không phải trong một trận dịch bệnh. “Tớ sẽ đi xem Wiress.”

Tôi lấy một nắm rêu dùng như một cái khăn và đặt Wiress vào chỗ nước nông. Bà ấy không kháng cự khi tôi cởi bỏ quần áo, lau máu trên da. Nhưng đôi mắt thì mở rộng cùng với nỗi sợ hãi, và khi tôi nói chuyện, bà ấy không đáp lại ngoại trừ việc nói điều này với một sự khẩn cấp ngày càng tăng: “Tích, tắc.” Bà ấy có vẻ cố nói với tôi điều gì đó, nhưng không có Beetee giải nghĩa, tôi cũng lúng túng.

“Phải. Tích, tắc. Tích, tắc.” tôi nói. Điều này có vẻ khiến Wiress bình tĩnh đôi chút.

Tôi giặt sạch bộ đồ liền thân của Wiress cho đến khi không có một dấu máu nào, và giúp bà ấy mặc trở lại. Nó không bị phá hủy như bộ của chúng tôi. Dây thắt lưng còn tốt, nên tôi cũng thắt nó lại. Rồi tôi đặt bộ đồ lót trong của bà bên cạnh bộ đồ của Beetee, dưới vài viên đá và để chúng nhúng nước. Lúc tôi súc rửa bộ đồ của Beetee, một Johanna sạch sẽ tỏa sáng và một Finnick đang bong tróc tham gia cùng chúng tôi. Mất một lúc, Johanna nuốt ngụm nước và ăn ngấu nghiến con sò trong khi tôi cố dỗ chút gì đó cho Wiress. Finnick kể chuyện về màn sương và những con khỉ bằng một giọng ngắt quãng và gần như không thoải mái, tránh các chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện.

Mọi người đề nghị canh chừng trong khi những người còn lại nghỉ ngơi, nhưng rút cục, Johanna và tôi cùng thức. Là tôi bởi tôi thực sự cần nghỉ ngơi, là cô ta bởi cô ta chỉ đơn giản không muốn nằm xuống. Hai người chúng tôi ngồi trong im lặng bên bờ biển cho đến khi những người khác yên giấc.

Johanna liếc qua Finnick để chắc chắn, rồi quay ra phía tôi. “Sao mà các cô mất bà Mags?”

“Trong màn sương. Finnick đi với Peeta. Tôi đi cùng bà Mags một lúc. Rồi tôi không thể vác bà ấy nữa. Finnick nói không thể vác cả hai. Bà ấy hôn Finnick và bước thẳng vào trong làn sương độc.” tôi nói.

“Bà ấy là cố vấn của Finnick, cô biết thế mà.” Johanna nói vẻ cáo buộc.

“Không, tôi không biết.” tôi đáp.

“Bà ấy là một nửa gia đình của anh ấy.” cô ta nói vài giây sau đó, nhưng ít ác ý hơn.

Chúng tôi nhìn nước táp lên các bộ đồ lót.

“Thế cô làm gì với Quả hạch và Vôn điện?” tôi hỏi.

“Tôi nói với cô là – tôi tìm họ cho cô. Ông Haymitch nói nếu chúng ta thành đồng minh thì tôi phải mang họ đến cho cô.” Johanna nói. “Đó là điều cô nói với ông ấy đúng không?”

Không, tôi nhủ. Nhưng lại gật đầu tán thành. “Cảm ơn. Tôi sẽ đánh giá cao việc đó.”

“Hi vọng thế.” Cô ta trao cho tôi cái nhìn đầy miễn cưỡng, như kiểu tôi là vật trở ngại lớn nhất trong đời. Tôi băn khoăn rằng sẽ thế nào nếu có một người chị gái giống thế này thực sự căm ghét bạn.

“Tích, tắc.” Tôi nghe thấy sau lưng. Quay lại, tôi thấy Wiress vừa bò tới. Đôi mắt bà ấy tập trung vào khu rừng.

“Ồ, ngon, bà ta đã tỉnh. Được rồi, tôi sẽ đi ngủ. Cô và Quả hạch có thể cùng canh giữ.” Johanna nói. Cô ta bước qua và nằm phịch xuống cạnh Finnick.

“Tích, tắc.” Wiress thì thào. Tôi dẫn bà ấy ngồi đằng trước mình và giúp bà ấy nằm xuống, vuốt ve cánh tay xoa dịu bà. Bà ấy rạp xuống, cử động không yên, thỉnh thoảng thở ra câu nói của mình. “Tích, tắc.”

“Tích, tắc.” Tôi thỏa thuận nhẹ nhàng. “Tới giờ đi ngủ rồi. Tích, tắc. Ngủ thôi.”

Mặt trời mọc trên nền trời cho tới khi nó chiếu thẳng tới chỗ chúng tôi. Chắc phải trưa, tôi nghĩ lơ đãng. Không vấn đề gì. Ngang tầm mặt nước, dưới cùng phía bên phải, tôi trông thấy một vệt sáng khổng lồ giống như tia sét đánh vào đám cây và cơn bão điện lại kéo tới. Đúng khu vực mà nó xuất hiện tối qua. Ai đó hẳn đã đi vào phạm vi của nó, tạo ra một cuộc tấn công. Tôi ngồi một lúc quan sát tia chớp, giữ Wiress bình tĩnh, tạm lắng trong yên bình bởi con sóng nước vỗ bập bềnh. Tôi nghĩ đến tối qua, làm thế nào mà tia chớp phát ra chỉ ngay sau khi tiếng chuông vang lên. Mười hai tiếng chuông lớn.

“Tích, tắc.” bà Wiress thốt, bày tỏ vẻ tỉnh táo trong chốc lát và rồi lại trở về nguyên trạng.

Mười hai tiếng chuông tối qua. Như lúc giữa đêm. Rồi đến tia chớp. Giờ mặt trời đã lên đỉnh đầu. Như là buổi chiều. Rồi tới tia chớp.

Tôi chậm rãi ngồi dậy và suy nghĩ về đấu trường. Tia chớp ở chỗ kia. Ở mũi nhọn hình quả táo là trận lụt máu xảy ra, nơi Johanna, Wiress và Beetee bị bắt gặp. Chúng tôi ở phần thứ ba, ngay cạnh đó, khi màn sương xuất hiện. Và khi nó biến mất, những con khỉ lại bắt đầu tập trung ở phần thứ 4. Tích, tắc. Đầu tôi hướng tới phía bên còn lại. Đôi giờ trước, tầm 10h, là con sóng xuất hiện từ phần thứ hai kể từ bên trái nơi mà tia chớp phát ra lúc này. Buổi trưa. Giữa đêm. Buổi trưa.

“Tích, tắc.” Wiress nói trong lúc ngủ. Khi tia chớp ngừng lại và cơn mưa máu khởi nguồn ngay trên bên trái nó, lời nói của bà ấy đột nhiên có xúc cảm.

“Ồ,” tôi nói thấp giọng. “Tích, tắc.”

Đôi mắt tôi đảo xung quanh vòng tròn toàn đấu trường và tôi biết bà ấy đã đúng. “Tích, tắc. Đây là một chiếc đồng hồ.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.