Trời đã sáng rõ, gió Bắc thét gào, may mắn là mặt trời đã xuất hiện sau tầng mây, tiết trời cũng ấm áp hơn vài phần.
Đã hái được
đầy một vò hoa mai, sáng nay vừa dậy, Sính Đình cho thêm rượu Thiệu
Hưng, đường trắng, muối thô, cuống cải thảo, cười nói: “Thêm chút ngũ
hương thảo[1] có lẽ sẽ tốt hơn.”
[1] Ngũ hương thảo là một loài thực vật có hoa, thuộc họ Hoa môi.
“Để nô tỳ đi lấy.” Hồng Tường hứng khởi qua nhà bếp lấy, thấy Sính Đình bận rộn thế
thì đứng cạnh xuýt xoa, “Cầu kỳ như vậy, chắc ngon lắm. Cô nương chuẩn
bị để đón Vương gia về ư?”.
Hiểu ngay ý tứ của Hồng Tường, Túy Cúc lườm nha đầu ấy một cái, mỉm cười: “Đến khi làm xong, ngươi cũng được nếm một chút.”
Hồng Tường mừng quá, cao hứng vỗ tay, lại hỏi: “Cô nương có cần giúp gì nữa không?”
Hôm qua Sính Đình ngắm trăng cả đêm, tinh thần thoải mái vô cùng. Nàng không khách
khí, nói với Hồng Tường: “Ngươi ra góc vườn quét lớp tuyết, rồi đào một
hốc nhỏ trên lớp bùn. Lớp đất bùn dưới tuyết mang hương thơm thanh đạm
rất khác lạ. Chúng ta sẽ chôn vò xuống bùn, rồi hun lửa nửa canh giờ, để hương bùn thấm vào trong. Khi Vương gia về, cũng là lúc mở vò Tố hương
bán vận này.”
Túy Cúc ngẩn ngơ: “Tố Hương bán vận? Ngay cả cái tên cũng phải vắt óc mà ngẫm. Tấm
lòng ấy thật hiếm có, người được nếm món này quả có phúc.”
Sính Đình
thật đau đầu, từ khi thân quen đến giờ, Túy Cúc luôn tìm cơ hội để trêu
chọc nàng. Khẽ lườm Túy Cúc, khuôn mặt Sính Đình thoáng vẻ e thẹn.
Khoảnh khắc động lòng người khiến mọi thứ trước mắt Túy Cúc cũng như
bừng sáng.
Hồng Tường nhận lệnh, cầm chổi ra cửa.
Thấy Sính
Đình bê chiếc vò không hề nhẹ lên, eo dùng sức, chân lảo đảo, Túy Cúc
hốt hoảng hét một tiếng, vội vàng qua đỡ lấy, làu bàu: “Thêm vài lần thế này, chắc Túy Cúc sợ quá mà đổ bệnh mất”, rồi tự tay bê vò ra.
Hồng Tường đã quét sạch một góc tuyết, đang cầm xẻng đào đất, đào mãi mới được cái hố bé xíu..
Túy Cúc xắn
tay áo, nói: “Để ta thử xem.” Cầm lấy xẻng, loay hoay hồi lâu, mồ hôi
ướt đầm mà vẫn chưa đào được thêm, Túy Cúc tức giận kêu ca, “Đất bùn này rắn thật đấy, không lẽ dưới đấy là đá?”.
Sính Đình
đứng một bên, xoa tay xem hai người bận rộn, thấy họ không ngớt cằn nhằn bèn bật cười: “Nhìn qua cũng biết, các ngươi chưa làm việc nặng bao
giờ. Trời đông, đất đóng băng tất nhiên khó đào. Xem ra, chúng ta không
đủ sức, phải nhờ một thị vệ đến giúp.”
“Chuyện này đơn giản, nô tỳ đi tìm.” Vẫn hay qua lại với đám thị vệ, Hồng Tường nhận ngay việc này.
Đang định đi, nha đầu bỗng bị Túy Cúc túm lại: “Đừng tìm nữa. Có người đang đến kia rồi.”
Ba người cùng nhìn ra phía cổng vườn, quả nhiên một bóng người đang bước tới, hình như là Mạc Nhiên. Họ cùng ngóng cổ đợi.
“Sở tướng
quân…” Mạc Nhiên vừa bước vào cổng vườn, Hồng Tường đã hí hửng cất
tiếng, nhưng gọi được một nửa bỗng im bặt, vội vàng đưa tay bịt miệng.
Người đến đúng là Sở Mạc Nhiên.
Mạc Nhiên vẫn mặc y phục hôm qua, lưng đeo kiếm, thoạt nhìn có vẻ rất nhẹ nhàng thoải mái, song sắc mặt lại khó coi muôn phần.
Dù phát hiện ra quân địch đang đổ bộ sát biên cương, sắc mặt Mạc Nhiên cũng không khó coi như thế.
Thấy sắc mặt Mạc Nhiên, cả Sính Đình và Túy Cúc đều im bặt.
“Sao thế?”, sau giây phút im ắng, Sính Đình hỏi.
Vẻ trấn tĩnh của Mạc Nhiên ẩn chứa nỗi kinh hoàng, bất an mà người thường khó lòng
nhận ra. Không muốn Sính Đình lo lắng, Mạc Nhiên hít một hơi sâu, điều
chỉnh lại cảm giác lo lắng khi phát hiện thấy nguy hiểm, hạ giọng: “E đã có biến, chỗ này không thể ở lâu, cô nương hãy đi theo Mạc Nhiên.”
Đi vài bước, thấy không ai theo, Sính Đình và hai người kia vẫn đứng yên, Mạc Nhiên
quay lại, cau mày: “Thời gian không còn nhiều, đừng chần chừ nữa.”
Sính Đình
vẫn chẳng nhích chân, gió Bắc bỗng lạnh thấu xương. Nàng xoa hai tay vào nhau, nói với Mạc Nhiên: “Đi theo ta”, rồi quay người vào phòng.
Thấy Sính Đình hoàn toàn trấn tĩnh, Mạc Nhiên vô cùng ngạc nhiên, do dự giây lát rồi đi theo nàng.
Hồng Tường
và Túy Cúc đều biết xảy ra việc không hay, nhưng không hay đến cỡ nào
thì chẳng thể nghĩ ra. Thấy Sính Đình muốn nói chuyện riêng với Mạc
Nhiên, Túy Cúc kéo áo Hồng Tường, hai người ôm chiếc vò chưa được chôn
xuống đất vào phòng bên, lo lắng chờ đợi.
Sính Đình
vào phòng, ngồi xuống ghế. Không biết nàng nghĩ gì mà ánh mắt xa xăm.
Nàng bưng chén trà trên bàn lên, nhấp môi, thấy trà đã nguội bèn đặt
xuống, hạ giọng hỏi Mạc Nhiên: “Là người của Vương hậu?”.
Mạc Nhiên tiếp tục ngạc nhiên.
Sở Bắc Tiệp chưa từng hé lộ với Sính Đình việc Vương hậu cử cao thủ mai phục gần đây.
Hắn nhìn Sính Đình.
Sính Đình
cười chua xót: “Ta hoàn toàn có thể đoán ra. Mối thù cốt nhục đâu dễ
quên. Vương gia không cho ta rời khỏi chỗ này nửa bước, một mình lên
đường, để lại tất cả cận vệ đã đành, ngay cả Mạc Nhiên cũng không cho
theo. Đông Lâm rộng lớn như vậy, người dám đối đầu với Vương gia, lại
mang thù với ta, còn có thể là ai? Nói xem, tình hình tồi tệ đến mức
nào?”.
Nói xong câu này, vẻ uể oải của Sính Đình đã hoàn toàn biến mất. Đôi mắt đen sáng
ngời trí tuệ, khiến người ta nhớ ra rằng, ở Bắc Mạc, nàng đường đường là chủ soái, quyết định sự tồn vong của cả một quốc gia.
Nhìn chăm
chăm khuôn mặt thanh tú của Sính Đình, Mạc Nhiên quyết định sẽ hoàn toàn thẳng thắn, hạ giọng: “Tồi tệ đến mức không thể tồi tệ hơn. Mười thị vệ đêm qua phái đi xem xét tình hình trong rừng, không một người trở về.
Đợi đến sáng nay, cảm thấy bất an, Mạc Nhiên lại cử người đến nơi ẩn nấp hàng ngày của các cao thủ Vương hậu phái đến, xem họ có gì khác
thường…”.
“Những thị
vệ ấy chắc chắn cũng không về?”, Sính Đình lãnh đạm cắt ngang, cau mày
đáp, “Có nghĩa là ngọn núi này đã bị bao vây. Trong tay Vương hậu có
nhiều binh mã đến thế sao?”.
“Bạch cô
nương, tình hình nguy cấp, cô nương hãy lập tức theo Mạc Nhiên về sau
núi”, Mạc Nhiên lo lắng, “Sau núi có chỗ ẩn nấp do Vương gia chuẩn bị,
đề phòng có việc không hay, người bình thường sẽ không thể tìm thấy. Giờ mục tiêu biệt viện đã quá rõ ràng.”
Sính Đình
ngó qua Mạc Nhiên, ý tứ sâu xa: “Ở đây chỉ có một đội thị vệ, dù thêm
Tướng quân cũng chẳng ngăn nổi binh mã đang bao vây ngọn núi này. Thực
lực hai bên khác nhau như vậy, sao họ vẫn chưa ra mặt?”.
Mạc Nhiên
cúi đầu suy nghĩ, bỗng ngẩng lên, hỏi với vẻ không thể tin: “Lẽ nào
chúng đã tìm ra chỗ ẩn nấp sau núi? Chỉ đợi ta chui đầu vào rọ?”. Đối
thủ lợi hại như thế, lại có lực lượng hùng hậu, ta phải làm sao? Nghĩ
đến đây, hai đầu lông mày của Mạc Nhiên càng chau.
Không trả
lời câu hỏi, Sính Đình đứng dậy, vén rèm, tựa cửa nhìn sắc trời, hỏi:
“Trong biệt viện nuôi bao nhiêu bồ câu đưa thư?”.
“Tất cả mười lăm con”, Mạc Nhiên hỏi, “Sao thế?”.
“Thả hết ra, dọc theo tường biệt viện, bốn phương tám hướng, hướng nào cũng thả.”
Giọng nói lãnh đạm, nhưng rất có trọng lượng. Mạc Nhiên cứ thế nghe theo, đáp: “Mạc Nhiên sẽ làm ngay.”
Thấy Mạc
Nhiên vội vã rời đi, Túy Cúc bưng trà nóng vào trong. Sính Đình đang
đứng bên cửa, ngẩng đầu nhìn trời. Sáng nay bận rộn với vò hoa mai, nàng chưa kịp búi tóc, mái tóc đen xõa dài trên lưng, khuôn mặt bi thương,
nhìn xa xăm. Túy Cúc nhất thời hoảng loạn, giơ tay ra kéo Sính Đình,
gọi: “Bạch cô nương?”.
Sính Đình
sực tỉnh, quay lại nhìn Túy Cúc: “Là ngươi ư?”. Nàng mỉm cười buồn bã,
“Hình như chỉ cần tiếp tục sống thì sẽ mãi mãi chẳng có lấy một ngày yên ổn, nghĩ cũng chán. Ngoài này lạnh, chúng ta vào phòng uống trà nóng
đi.” Nói rồi nàng quay người, bước vào phòng.
Túy Cúc bưng trà vào theo, đưa cho Sính Đình một chén, rồi tự mình lấy một chén cầm
trong tay. Nhìn thần sắc Sính Đình, Túy Cúc không thể đoán ra nguyên do, bèn lựa lời thăm dò: “Dù xảy ra chuyện gì không hay, cũng đã có Mạc
Nhiên. Nơi này là Trấn Bắc vương phủ, chẳng lẽ lại có kẻ không sợ chết
mà xông vào?”.
Biết Túy Cúc thông minh nhanh nhẹn, giỏi y thuật, nhưng suy nghĩ vẫn rất ngây thơ,
Sính Đinh cúi đầu nhấp ngụm trà, giọng chậm rãi: “Vì đây là Trấn Bắc
vương phủ, nên càng phải lo lắng. Dám đến nơi này sinh sự, há chẳng phải tay vừa? Nếu chuyện Vương gia đột ngột rời khỏi đây cũng là một mắt
xích trong mưu lược, thì sự việc cực kỳ gay go. Ta chỉ lo…”. Nàng cúi
đầu xoa bụng, rồi nhìn về phía Túy Cúc.
Bị ánh mắt
nhìn thấu tâm can người khác của Sính Đình rọi tới, Túy Cúc thực sự chấn động, trầm giọng: “Việc này Túy Cúc chưa từng nói với ai. Ngay cả Vương gia còn chưa biết, thì Túy Cúc dám nói với ai chứ?”.
Sính Đình gật đầu, thở dài: “Hy vọng mọi chuyện không quá tồi tệ như ta dự liệu.”
Lại có người vén tấm rèm, gió lạnh ùa vào cùng Mạc Nhiên.
Hai người ngẩng lên nhìn, sắc mặt Mạc Nhiên còn xấu hơn lúc trước.
“Thả hết
chim đưa thư, bay chưa được bao xa đều bị tên bắn chết sạch”, giọng Mạc
Nhiên vô cùng lo lắng, “Mười lăm con chim, không con nào thoát chết. Bốn phương tám hướng của biệt viện đều đã bị vây kín rồi.”
Giờ mới biết đang xảy ra chuyện gì, Túy Cúc hét lên một tiếng, hai mắt trợn trừng.
Suy nghĩ
giây lát, Mạc Nhiên cắn răng nói: “Cô nương hãy đưa ra Thần uy bảo kiếm
Vương gia để lại, để Mạc Nhiên sai người vượt vòng vây, về phía nam hai
mươi dặm là doanh trại Long Hổ, nhất định Thần Mâu tướng quân sẽ đưa
quân đến cứu.”
Sính Đình quay người, ánh mắt nhìn về phía Thần uy bảo kiếm treo trên vách,
Đó là thanh kiếm Sở Bắc Tiệp để lại trước lúc rời đi.
Bàn tay
chàng nóng hổi nắm chặt bàn tay nàng, nói với nàng rằng: “Ta để lại Mạc
Nhiên và các cận vệ bảo vệ nàng. Nhỡ chăng… nhỡ chăng xảy ra chuyện gì
mà ta không lường được, nàng hãy lập tức sai người mang thanh bảo kiếm
này đến doanh trại Long Hổ cách đây hai mươi dặm về phía nam, cầu cứu sự giúp đỡ của Đại tướng quân Thần Mâu. Thần Mâu sẽ nhận ra kiếm của ta.”
Lời dặn vẫn văng vẳng bên tai.
Thanh kiếm cán nạm đá quý đã nhuốm máu không biết bao nhiêu người đang treo trên vách.
Sính Đình vừa muốn mỉm cười, vừa muốn khóc.
Sở Bắc Tiệp đã vì nàng mà sắp xếp mọi việc, nhưng lại lơ là một điểm quan trọng nhất.
Sao có thể trách chàng, chắc chàng cũng không thể ngờ việc lại đến nước này.
Sính Đình bước tới, lặng lẽ lấy thanh Thần uy bảo kiếm xuống, ngón tay nõn nà vuốt trên thân kiếm.
Cầu viện như cứu hỏa, thấy nàng không nỡ, Mạc Nhiên đành lên tiếng: “Chỉ thanh bảo
kiếm này mới có thể làm tín vật của Vương gia, và điều động được binh mã của doanh trại Long Hổ. Cầu viện xong sẽ lập tức trả cho cô nương.”
Mạc Nhiên tiến lên phía trước, hai tay nhận lấy Thần uy bảo kiếm, nhưng thấy Sính Đình tránh đi thì vô cùng ngạc nhiên.
Bạch Sính Đình trước nay vẫn coi trọng đại cục, thông tuệ hơn người, sao đến thời khắc sinh tử lại khó xử như vậy?
Quân địch ở ngay trước mắt, sinh tử cận kề, nghĩ đến đội quân đang bao vây ngoài biệt viện, lòng Mạc Nhiên chùng xuống.
Sính Đình ôm thanh kiếm trong lòng, ngồi xuống, ánh mắt bình tĩnh nhìn Mạc Nhiên,
hỏi với giọng vô cùng quả quyết nghiêm nghị, “Đội quân bao vây biệt viện ẩn cư của Trấn Bắc vương như vậy, lẽ nào Đông Lâm vương lại không
biết?”.
Như có tiếng sấm ngang tai, sắc mặt Mạc Nhiên trắng bệch.
Không phải Vương hậu âm thầm hành động, mà là Đại vương cho phép?
Nếu cả Đại vương cũng nằm trong kế hoạch này, họ còn đâu cơ hội?
Sính Đình
hỏi: “Phong tỏa cả một ngọn núi chẳng phải chuyện nhỏ. Chúng ta không
biết vì chúng ta bị vây ở giữa, cũng bởi đối phương cố ý giấu chúng ta,
nhưng dân chúng qua đường chắc chắn biết rõ. Doanh trại Long Hổ cách đây hai mươi dặm sao có thể không biết?”.
Những câu nói liên tiếp khiến Mạc Nhiên sững sờ, không đáp nổi một lời.
Mà thực ra, Mạc Nhiên cũng chẳng cần phải trả lời câu hỏi ấy.
Giống như tờ giấy mỏng, sau khi bóc đi, tất cả sẽ phơi bày.
Sở Bắc Tiệp
đề phòng mọi lẽ, phòng kẻ địch, phòng vương tẩu nhưng không hề đề phòng
ca ca mình, người đường đường là vua một nước, là Đông Lâm vương hiển
hách.
Cốt nhục liền tim.
Vị đại ca vốn hiểu Sở Bắc Tiệp nhất, vị đại ca vốn biết rõ nữ tử này đối với chàng quý báu đến chừng nào, lại…
Túy Cúc nín thở.
Sính Đình cúi đầu, chăm chú nhìn Thần uy bảo kiếm trong lòng. Hơi ấm của Sở Bắc Tiệp như vẫn còn đây.
“Doanh trại
Long Hổ, nếu không bị vương lệnh điều chuyển đi nơi khác thì cũng đã đổi đại tướng. Ta cử người liều chết cầu viện cũng chẳng ích gì.” Lãnh đạm
phán đoán, Sính Đình nhìn ra ngoài cửa sổ, bỗng hỏi, “Hôm nay mồng
mấy?”.
Túy Cúc khẽ đáp: “Mồng Bốn.”
Trời đã quá trưa.
“Mồng Bốn?”, nàng nở nụ cười, “Vậy còn hai ngày nữa”. Sính Đình quay lại, nhìn Mạc
Nhiên: “Ta cần bản đồ địa hình nơi đây, tất cả bản tấu chương gần đây
nhất, số lượng thị vệ có thể điều động, võ công cao thấp và sở trường
của từng người, nguồn nước uống, nguồn thực phẩm, cả tình hình của người phụ trách thu mua và tình hình chúng dân thường lên núi săn bắn, chặt
củi…”
Dặn dò liền
một hơi, Sính Đình thở khẽ ra, giọng lãnh đạm: “Đội quân hùng mạnh chỉ
bao vây mà chẳng tấn công, rõ là có ý dụ hàng. Đây không phải thái độ
của Đông Lâm vương, mà giống một cố nhân nào đó, có thể là ai?”.
Sính Đình suy nghĩ, hàng mày chau lại, nhưng ánh mắt dần trở nên kiên định.
Thành đô Đông Lâm.
Ánh mặt trời xua tan đêm đen, mang theo những tia nắng hiền hòa màu vàng cam bao
trùm lên vương cung Đông Lâm, càng khiến cả vương cung thêm nặng nề u ám trong nắng mai.
Đông Lâm
vương nắm tay Vương hậu, bước vào điện của Lệ phi nương nương, dịu dàng
an ủi khuôn mặt đã nhợt nhạt như tờ giấy trắng của nàng ta. Cung nữ đưa
tiểu Công chúa đã tắm rửa sạch sẽ, quấn khăn trắng tinh tới để Đại vương và Vương hậu xem mặt.
“Giống Đại vương quá”, Vương hậu khẽ bảo.
Hai hàng
lông mày của Đông Lâm vương chau lại, nhìn hài nhi mới sinh thì cố nặn
ra nụ cười, khóe môi chỉ hơi nhếch, nét cười còn chưa kịp biến mất, bên
ngoài đã vang lên tiếng đao gươm chát chúa.
“Đại vương
cẩn thận!” Tiếng binh khí chói tai, vang vọng trong vương cung. Bốn cận
vệ của Đông Lâm vương nhìn nhau, biết sắp có biến, bèn áp sát bên Đông
Lâm vương và Vương hậu, rút bảo kiếm, cảnh giác ngó quanh bốn phía. Hai
người còn lại nhanh chóng đến gần cửa sổ thám thính.
Những tiếng
kêu thảm thiết lẫn trong tiếng vật nặng rơi xuống xuyên vào tẩm cung,
tiểu Công chúa đang ngủ ngoan bỗng giật mình òa khóc.
Đúng lúc đó, tiếng đao gươm im bặt. Sự yên tĩnh bất ngờ càng khiến mọi người nín thở.
Ánh mắt sáng quắc, Đông Lâm vương đứng bật dậy, đẩy cửa lớn, đứng trên bậc cao.
Đập vào mắt Đông Lâm vương là dáng hình vững chãi của Sở Bắc Tiệp.
Trận chiến quyết tử đã kết thúc một chặng đường.
Vết máu loang lổ khắp trung đình, thị vệ bị thương rải khắp nơi, nhưng ai nấy đều cắn răng chịu đựng, không một lời rên rỉ.
Các thị vệ
chưa bị thương nắm chắc trường thương, bao vây quanh Sở Bắc Tiệp thành
một vòng tròn, nhưng chẳng ai còn dám tiến lên khiêu chiến.
Sở Bắc Tiệp
cầm kiếm đứng sững giữa trung đình, lặng lẽ nhìn những giọt máu tươi như giọt lệ châu màu đỏ từ lưỡi kiếm nhỏ xuống nền đá bóng loáng.
Chàng không
hề để ý đến sự uy hiếp xung quanh, cơ hồ chỉ cần có kiếm trong tay, thì
dù bốn bề có hàng ngàn hàng vạn thị vệ vương cung, cũng chẳng ngăn được
bước chân chàng.
Những điều này có lẽ đều là thật.
Không khí im lặng khiến người ta lo lắng.
Những người xung quanh nhìn về phía Trấn Bắc vương uy danh thiên hạ, nín thở, căng mắt chờ đợi.
Khi giọt máu cuối cùng nhỏ xuống từ mũi kiếm, Sở Bắc Tiệp quay đầu, nhìn đôi mắt
thâm trầm như sương mù trên núi sâu của ca ca, lạnh nhạt: “Vì đâu nên
nỗi?”.
Thanh âm nhẹ nhàng, thấp trầm ấm áp chỉ có ở bậc trượng phu, nhưng đến tai mọi người lại tựa như mũi tên nguy hiểm đã nằm sẵn trên cung.
Dưới chân Sở Bắc Tiệp là vị tổng quản thị vệ mới nhậm chức Đổng Chính được phái đi
ngăn bước chàng, lúc này nhuộm đỏ màu máu nằm lăn trên đất, vẫn cố cắn
răng không rên một tiếng.
Bị ánh mắt
sắc bén của Sở Bắc Tiệp lướt qua, cả người Vương hậu run rẩy, đang định
lên tiếng, Đông Lâm vương bỗng nắm tay ái thê, Vương hậu lại nhìn đi chỗ khác, im lặng đứng bên Đông Lâm vương.
“Quả nhân sơ ý rồi.” Đông Lâm vương đứng trên bậc cao, nhìn xuống đệ đệ duy nhất của mình, thở dài bất lực, “Đệ làm tướng nhiều năm, binh phù lẽ ra luôn
mang theo mình, hà cớ phải quay về cung Chiêu Khánh lấy? Bắc Tiệp, đệ
muốn uổng phí cả tâm huyết của quả nhân với đệ hay sao?”.
Sở Bắc Tiệp lặng lẽ nhìn thẳng về phía Đông Lâm vương, giọng lãnh đạm: “Vì đâu nên nỗi?”.
Mũi tên trên cung đã căng thêm một chút.
“Bởi đệ là
đệ đệ của quả nhân, là Trấn Bắc vương của Đông Lâm.” Giọng Đông Lâm
vương lên bổng xuống trầm, uy nghi lẫm liệt, “E là quả nhân không có
vương tử, giang sơn này sẽ là của đệ, hàng ngàn hàng vạn chúng dân trăm
họ, cả những tướng sĩ đang ngóng trông đệ nơi biên ải, các thị vệ ngoan
cường này, đều là của đệ!”.
Mãnh hổ gầm thét, không ai không sợ.
Thần sắc của Sở Bắc Tiệp vẫn chẳng thay đổi, sừng sững đứng đó, nhìn thẳng vào ánh
mắt của Đông Lâm vương. Tình thân cốt nhục trong ánh mắt ấy, khó chia
cắt mà đau lòng đứt ruột.
“Đại chiến
cận kề, trách nhiệm đầu tiên của vương tộc là bảo vệ quốc gia. Vương
huynh nghĩ ra trăm phương ngàn kế ngăn đệ rời cung, lẽ nào vì không muốn đệ xông pha nơi tiền tuyến?” Sở Bắc Tiệp chậm rãi suy đoán, rồi lại lắc đầu, “Không phải”. Suy nghĩ một hồi, hai hàng lông mày lưỡi mác của
chàng dựng đứng, “Vì không muốn đệ quay về biệt viện ẩn cư?”.
Biệt viện ẩn cư nhỏ bé, sao lại kinh động đến cả Đông Lâm vương và Vương hậu?
Ánh mắt Sở
Bắc Tiệp lướt qua khuôn mặt đang cúi xuống vẫn chẳng chút thay đổi của
Vương hậu, chợt có cảm giác không lành, rồi thực sự chấn động: “Là vì
Sính Đình?”.
Sính Đình đang ở đó, nếu cả Đông Lâm vương nhúng tay vào, thì dù Mạc Nhiên có liều chết cũng không thể bảo vệ chu toàn.
Sở Bắc Tiệp thấy Đông Lâm vương vẫn chẳng lên tiếng, tay chân bỗng lạnh toát.
“Vương huynh!”, Sở Bắc Tiệp khẽ gọi, cố trấn áp cơn lạnh cóng trên người.
Giọng chàng rất nhẹ, nhưng chất đầy giận dữ. Nếu cán kiếm không được đúc bằng thép, e là đã bị chàng bóp nát.
Sính Đình! Dụ chàng về đây, chỉ là vì Sính Đình!
Lẽ nào trong lúc chàng bị giữ ở vương cung, phương xa đã xảy ra biến cố?
Lẽ nào khi chàng trở về, sẽ không còn nhìn thấy bóng dáng mảnh mai gảy đàn dưới gốc mai?
Sở Bắc Tiệp nhìn Đông Lâm vương, ánh mắt chất đầy thất vọng và cảm giác không thể nào tin, cũng lấp lánh tia hy vọng.
Hy vọng vương huynh còn niệm chút tình huynh đệ, mà cho Sính Đình một cơ hội sống.
Vốn cứng rắn là thế, gặp phải ánh mắt của Sở Bắc Tiệp, Đông Lâm vương cũng phải sững sờ, quay đi chỗ khác.
Cảm nhận được ánh mắt trốn tránh của vương huynh, cả người Sở Bắc Tiệp cứng đờ.
Trái tim nặng nề rơi xuống tận cùng của vực thẳm tối đen.
Mồng Sáu…
“Sinh thần của Vương gia, chúng ta có thể ở bên nhau không?”
Giọng nói thánh thót vang bên tai, nhất cử nhất động của Sính Đình đều trong đáy mắt, đáy lòng chàng.
Mồng Sáu, chàng đã hứa với nàng.
Lòng rối như tơ vò. Nhưng lòng càng rối, đầu càng bình tĩnh.
Trong thoáng chốc, khuôn mặt Sở Bắc Tiệp sáng lên sự quyết đoán, cầm chắc bảo kiếm trong tay, quay người bước đi.
Đám thị vệ
giương giáo vây quanh Sở Bắc Tiệp thấy chàng đi khỏi trung đình như thần thánh hạ phàm, không giận mà uy, hết thảy đều sững sờ, chẳng biết có
nên ngăn lại không. Mũi kiếm hướng xuống đất, Sở Bắc Tiệp ngẩng đầu bước đi, mặc kệ mũi giáo nhọn chĩa vào mình. Chàng vẫn ưỡn ngực đi, dường
như những mũi thương kia có đâm vào ngực cũng chẳng ngăn nổi bước tiến
của chàng.
Ánh mắt chàng mênh mang như biển cả, sâu thẳm không thấy đáy. Phong ba bão táp đã thực sự bắt đầu!
Không ai dám nhìn vào ánh mắt ấy, cũng như chống lại mũi kiếm của chàng.
Ai chưa từng nghe đến uy danh của Trấn Bắc vương? Đám thị vệ bị khí thế của chàng lấn áp, giáo mác lùi hết ra sau.
“Để Vương gia đi.” Thanh âm thấp trầm của Đông Lâm vương vang lên phía sau.
Thị vệ như được đại xá, vội vàng nhường bước.
Mũ phượng trên đầu khẽ rung, giọng Vương hậu run rẩy: “Đại vương!”.
“Vương hậu
muốn quả nhân giết vương đệ, hay muốn vương đệ giết hết thị vệ ở đây?”
Đông Lâm vương đứng thẳng như mũi thương, ánh mắt dõi theo dáng hình
kiên nghị có thể chống nổi cả một phương trời của Sở Bắc Tiệp, nặng nề
thở dài, “Để vương đệ đi. Biệt viện ẩn cư chắc đã tan hoang, dù giờ đệ
ấy có trở về cũng chẳng kịp nữa rồi.”
Vắng bóng Sở Bắc Tiệp, trung đình đã không còn vẻ lẫm liệt lúc trước, nhưng không
khí rất đỗi nặng nề, chẳng ai dám cử động, đến hài nhi vừa ra đời cũng
như cảm nhận được nỗi đau khổ đang âm thầm bủa vây của quốc nạn trước
mắt, không dám khóc to.
Đông Lâm vương nhìn lên bầu trời đang dần sáng rõ, ánh mắt của bậc đế vương ẩn giấu lo âu và than thở.
Tiếng bước
chân phá vỡ không khí im ắng đến ngạt thở, lão thừa tướng Sở Tại Nhiên
loạng choạng nhào vào, quỳ xuống bẩm báo: “Đại vương, Trấn Bắc vương đi
thẳng ra cổng cung, gọi mười hai vị tướng lĩnh trẻ tuổi, dùng binh phù
điều động hai đội kỵ binh tinh nhuệ của quân cấm thành, tất cả ba ngàn
binh mã, xuất phát từ cổng phía tây!”.
“Cứ để vương đệ đi.” Ánh mắt Đông Lâm vương không còn xa xăm, thần sắc đã khôi phục, ung dung bước xuống, dịu dàng nói, “Không trải qua nỗi thống khổ cắt da cắt thịt, sao có thể trở thành đại vương tương lai của Đông Lâm?”.
Bắc Tiệp, hãy đi để tận mắt chứng kiến biệt viện ẩn cư của mình đã thành phế tích.
Hy vọng hỏa diệm đốt chát cả chân trời kia cũng sẽ thiêu rụi tia tư tình cuối cùng từ đáy lòng đệ.
Bậc đế vương, muốn có quốc, không thể có gia.