Bích Vân Thần Chưởng

Chương 10: Vạn niên chi mã




Chàng cả kinh vội quát lớn một tiếng, giơ hữu chưởng lên chống bảy chưởng của đối phương một lúc. Nhưng may thay, chàng chỉ còn lại bấy nhiêu sức lực mà cũng đẩy lui được bảy chưởng đó.

Sau những tiếng kêu “lộp bộp” và còn một tiếng kêu “bùng” thật lớn, một cái bóng người lui ra rất nhanh và bước đi lảo đảo như suýt ngã. Thì ra người đó là Kiếm Phi sắc mặt nhợt nhạt mồ hôi trán toát ra như mưa, quần áo bị chưởng phong của kẻ địch đánh cho rách rưới khôn tả.

Chàng lui về phía sau mười mấy bước, mồm phun ra một tia máu tươi như một mũi tên vậy, rồi chàng té lăn ra đất không sao cử động được nữa.

Tuy kịch chiến đã lâu, chân lực đã hao hụt rất nhiều nhưng công lực của Mạc Định vẫn còn hùng hậu, nên Kiếm Phi không sao chống đỡ nổi và bị thương nặng như vậy.

Mạc Định đẩy lui Kiếm Phi rồi đi tới Tần Kỳ, nhanh tay điểm vào mấy nơi yếu huyệt để cho vết thương của người bạn đó khỏi phun máu ra nữa, rồi y lại đỡ Tần Kỳ dậy để xoa bóp.

Trận đấu kết thúc, xác chết nằm ngổn ngang, máu chảy thành suối. Quần hùng bao vây ở vòng ngoài cũng dần dần giải tán hết. Tôn Sát người đẫm đầy máu tươi, và máu của y vẫn còn tiếp tục nhỏ xuống từng giọt một. Tay y vẫn nắm chặt con Linh Chi mã, con ngựa trong trắng như thế mà cũng dính đầy máu, nhưng hai mắt nó vẫn còn lóng lánh.

- Thiết Hồng bang đại thắng rồi.

Trong lúc quần hùng giải tán đều thì thầm bàn tán, có vẻ bất mãn. Tuy Thiết Hồng bang còn lại có hai người vẫn còn có thể đi lại và đánh đấm được thôi, nhưng ai có thể tư tin là có thể hạ nổi được Tôn Sát và Mạc Định.

Tôn Sát từ từ quay đầu lại, mặt y trông khủng khiếp như một mặt may quỷ và cười khì mấy tiếng rồi từ từ tiến tới gần Kiếm Phi.

Không ai biết y tới đó làm chi, quần hùng đang định bỏ đi, thấy vậy đều ngừng chân lại nhìn cả vào người Tôn Sát.

Lúc bấy giờ không khí nặng nề khôn tả.

Tôn Sát bỗng ngừng bước cúi đầu nhìn vào mặt Kiếm Phi. Lúc ấy Kiếm Phi đang mê man bất tĩnh, không biết gì cả. Hình như Tôn Sát ngắm nhìn bộ mặt anh tuấn của Kiếm Phi và có ý muốn tìm kiếm một vật gì thì phải, rồi đột nhiên y lộ vẻ kinh ngạc và chân cũng như bị rắn rết cắn phải vậy, người y rúng động một cái, vội lùi về phía sau một bước.

Cho tới khi vẻ mặt đã khôi phục như thường rồi, y mới tiến lên một bước nữa, cúi người xuống dùng ngón tay điểm vào ba nơi yếu huyệt ở trước ngực Kiếm Phi.

Chỉ trực của y chia ra làm ba làn khói đen lờ mờ, không ai trông thấy rõ, và chỉ thoáng cái đã biến mất ngay.

Chỉ thấy mặt của Kiếm Phi đang xanh tía bỗng tỏ vẻ nhăn nhó hình như chịu không nổi sự đau đớn vậy. Đồng thời chàng còn kêu hự một tiếng, đau nhức thấu xương và cũng tựa như muôn vạn con kiến đang chui vào trong người chàng mà cắn xé vậy.

Trong lúc mê man như vậy mà chàng còn chịu không nổi sự đau đớn ấy đến phải thức tỉnh, mồ hôi của chàng toát ra như mưa. Đồng thời mình mẩy tay chân chàng run lẩy bẩy nữa. Lúc ấy con dao ngắn vẫn còn cắm sâu vào vai trái của chàng và hơi lạnh ở trên lưỡi dao cũng bắt đầu chạy khắp mình mẩy của chàng.

Chàng càng đau đớn thêm, nên mồm cứ rên rỉ hoài, rồi từ từ hé mở đôi mắt lờ mờ ra. Đột nhiên chàng ngừng lại rên rỉ, hai mắt tia ra hai luồng sáng phẫn nộ. Chàng đã nhận ra người đứng ở trước mặt mình là Tôn Sát, hộ pháp của Thiết Hồng bang và cũng là kẻ thù chỉ tử nữa.

Chàng là người rất kiêu ngạo, đành chịu đau khổ chỉ chết chứ không chịu tỏ vẻ hèn kém trước kẻ thù. Chàng muốn lên tiếng nói nhưng vì quá đau đớn nên không sao nói lên lời được. Tôn Sát liền cười nhạt một tiếng, rồi âm thầm hỏi :

- Tiểu tử, có phải ngươi là Kiếm Phi không?

Kiếm Phi như bị dao đâm chém, nhưng chàng vẫn bướng bỉnh bò dậy, cố hết sức mới trả lời được một câu :

- Phải...

Hai mắt của chàng tia ra hai luồng ánh sáng phẫn nộ như hai con rắn độc định cắn vào mặt Tôn Sát vậy. Nếu đôi mắt của chàng có thể giết được người, thì chàng đã xé y ra làm hai rồi.

Tôn Sát đột nhiên ngửng mặt lên trời cười the thé như tiếng ma kêu, khiến ai nghe thấy cũng phải rùng mình hãi sợ. Y vừa cười xong lại lạnh lùng hỏi :

- Tiểu tử, ngươi họ Đặng thật hay họ Đặng giả?

Kiếm Phi trợn tròn xoe đôi mắt, lửa giận bốc lên khiến chàng cảm như đang ngồi trong vạc dầu sôi, rồi chàng lớn tiếng đáp :

- Thật!

Tôn Sát cười nhạt nói tiếp :

- Tiểu tử, ngươi không còn hơi sức gì nữa đâu.

Hai dòng nước mắt ở hai mắt của Kiếm Phi nhỏ ròng xuống. Bị nhục trước mắt kẻ thù như vậy, lại có quần hùng đứng chứng kiến nữa, lúc này chàng chỉ muốn chết thôi, nhưng trái tim của chàng nghiến răng :

- Ngươi còn có mối thù lớn của nghĩa phụ chưa trả được. Ngươi còn có mối thù của sư môn chưa thanh toán. Còn cha mẹ của ngươi là ai, ngươi vẫn chưa biết, thế mà ngươi lại dám chết một cách vô ích như vậy sao?

Vì thế mà chàng thở dài một tiếng từ từ cúi xuống, nước mắt của chàng vẫn tiếp tục nhỏ ròng xuống như mưa. Chân tay lẩy bẩy, lê mãi mới đi được một bước, Kiếm Phi từ từ đi trở ra. Quần hùng đứng ở đàng xa thấy vậy cũng phải thông cảm mà thở dài vì họ biết khắp thiên hạ này chưa có một người nào chịu đựng nổi Quỷ thủ tảo hồn của Tôn Sát.

Trong lúc Kiếm Phi đi từng bước một vào trong rừng và quần hùng đang thở dài và kính phục thì Tôn Sát đột nhiên ngửng mặt lên trời cười quái dị. Tiếng cười của y chưa dứt, y đã giơ tay lên búng một cái, liền có một luồng khói nhạt phi thẳng vào yếu huyệt sau lưng của Kiếm Phi.

Quần hùng như vậy lại đều im lặng ngay. Sự yên lặng của mọi người là biểu hiện của sự phẫn nộ vì thấy thủ đoạn của y quá ác độc và quá đê hèn, nhưng không một ai dám lên tiếng nói hết.

Kiếm Phi chỉ thấy yếu huyệt ở sau lưng bỗng tê tái, chàng cảm thấy mình mẩy ngứa ngáy khó chịu, còn khó chịu hơn muôn ngàn con kiến đang mút xương tủy của mình. Chàng chỉ kêu “hự” một tiếng đã ngã lăn ra đất ngay. Hai tay nắm chặt, nghiến răng, mím môi, máu tươi cứ nhỏ ra từng giọt một.

Chàng lăn lộn một hồi mà không kêu rên nửa lời. Một lát sau, chàng từ từ đứng dậy, đưa mắt nhìn Tôn Sát một cái rồi lảo đảo đi vào trong rừng ngay.

Tôn Sát đột nhiên quát lớn :

- Tiểu tử đứng yên.

Tiếng nói đó vừa dứt thì sau một tảng đá đã có người quát lớn :

- Bắc bảo Thượng Quan bảo.

Tiếng kêu ấy đã lan khắp mọi nơi và quanh đó hình như đã chứa đầy sát khí vậy.

Tiếng nói chưa dứt đã có bốn ông già mặc áo dài đỏ xuất hiện ở đây trước rồi.

Sự biến hóa đột nhiên ấy khiến ai nấy đều kinh ngạc vô cùng vì họ không ngờ Tứ lão của Thượng Quan bảo cũng tới đây nốt.

Tiếp theo đó, sau tảng đá lớn ấy lại có tám đại hán trung niên mặc võ trang màu đỏ như lửa, mỗi người tay cầm một cái búa tầm sét lớn, địa vị của Tứ lão của Thượng Quan bảo chỉ kém có Tổng quản thôi, võ công cao siêu không kém gì bọn Tôn Sát, Mạc Định.

Tôn Sát thấy bốn ông già này xuất hiện, mặt liền biến sắc dưới hoàn cảnh ấy y lạ bỏ chạy sao, nên đánh liều giơ tay trái lên phẩy một cái ra hiệu. Ngờ đâu, không phải là y ra hiệu đánh mà đánh theo Kiếm Phi một chưởng nữa.

Chỉ nghe thấy kêu “bùng” một tiếng, Kiếm Phi kêu “hự” một cái, người chàng cũng như một quả banh lăn lông lóc trên mặt đất liền, cao dao cắm ở trên vai trái của chàng lại càng cắm sâu vào tận xương, máu tươi ở mồm chàng phun ra như suối, nhưng không ai dám thương chàng mà cứu chữa cả. Chảng chỉ cố định đau đớn lặng lặng nằm trên mặt đất để nghĩ cách trả thù thôi.

Tôn Sát tấn công chàng một chưởng quay lại nhìn Tứ lão và mấy đại hán của Thượng Quan bảo.

Mạc Định cũng đứng yên vận sẵn công lực ra hai tay để đề phòng Tứ lão tấn công.

Tứ lão từ từ đưa mắt liếc quanh một vòng, người đứng đầu của Tứ lão là Lôi Hỏa lão cười ha hả, rồi tiến lên một bước hỏi Tôn Sát, Mạc Định rằng :

- Thế nào quý Bang chủ có được mạnh giỏi không?

Tôn Sát cười, lầm lì đáp :

- Đội ơn, quý Bang chủ vẫn được bình yên như thường.

Lôi Hỏa lão đưa mắt nhìn con Linh Chi mã ở trong tay Tôn Sát rồi vừa cười vừa nói tiếp :

- Tôn huynh đến sớm thật.

Tôn Sát cười the thé mấy tiếng, liền đáp :

- Các vị đến muộn thật.

- Lão nhận thấy đến vừa đứng lúc chứ chưa phải muộn.

Tôn Sát nghe thấy ông già ấy trả lời như vậy, giật mình kinh hãi lui về phía sau :

- Các hạ nói như thế là ý nghĩa gì?

Sau câu nói ấy tất cả mọi người có mặt tại đó đều im lặng, không khí trở lại nặng nề và gây cấn như trước khiến ai nấy đều khó thở vô cùng.

Đột nhiên trong rừng lại có tiếng người la lớn :

- Nam Tôn Hắc Sát trang.

Tiếng nói rất du dương và vòng đi rất xa, trong tiếng nói bao hàm đầy sát khí, chỉ trong nháy mắt ba người của Nam Tôn Hắc Sát trang đã xuất hiện trên bờ hồ đó liền.

Mọi người nhìn kỹ mới hay ba người đó đều là ba ông già đầu tóc bạc phơ, mặt mũi hung ác, người mặc áo gấm xanh trông rất lịch sự.

Tiếp theo đó, trong rừng lại có sáu đại hán trung niên, tay cầm dao răng cưa, mặc võ trang màu xanh, xếp hàng một từ từ đi ra trông rất oai nghi.

Bỗng có người khẽ nói :

- Hắc Sát tam ma!

Hắc Sát tam ma vừa xuất hiện thì Tôn Sát và Mạc Định khẽ gật đầu một cái. Ba người kia chắp tay chào Tứ lão của Thượng Quan bảo. Bốn ông già nọ cũng chắp tay đáp lễ.

Phi Thiên Ma Yêu người đúng đầu nhóm Tam ma liền cười và hỏi Tứ lão rằng :

- Bốn vị cũng tới đây đấy à? Thật tiểu đệ không ngờ chút nào.

Lôi Hỏa lão cười ha hả đáp :

- Già cũng không ngờ ba vị sao lại không quản ngại xa xôi hàng nghìn dặm mà tới đây.

Tuy Nam trang với Bắc bảo mới xuất hiện trên giang hồ được hơn mười năm thôi, nhưng sự phát triển nhanh chóng của hai bang phái ấy không thể tưởng tượng được và bây giờ đã trở thành hai bang phái lớn không kém phì một bang phái nào trong võ lâm hết, và mỗi bang ở một nơi, hộ ứng lẫn nhau, cao thủ của chuyện đông như kiến cỏ, nên Nam trang ở miền Nam, và Bắc bảo ở phía Bắc hầu như đã đứng đầu các bang phái ở miền Nam và miền Bắc rồi.

Nam trang là Hắc Sát trang, Bắc bảo là Thượng Quan bảo, tuy ngày thường vẫn có công việc đi lại với nhau, tình giao hảo khá mật thiết, nhưng hễ gặp thấy những việc gì có lợi lớn, cả đôi bên không ai chịu nhường ai hết.

Tôn Sát đâu là kẻ ngu si, thấy tình thế như vậy, đối với mình rất bất lợi, nếu trước mặt thiên hạ anh hùng mà y đào tẩu thì Thiết Hồng bang còn sĩ diện nào trong võ lâm nữa.

Hơn nữa y cũng biết bất cứ người nào trong Hắc Sát tam ma và Thượng Quan tứ lão võ công cũng cao siêu hơn mình nhiều. Huống hồ mình vừa kịch chiến xong, chân tay đang mệt mỏi.

Nhưng Mạc Định cũng không phải là người ngu ngốc, y biết nếu không nhân lúc này hạ đối thủ thì hậu quả không thể tưởng tượng được. Còn Tần Kỳ thì y đành phải để mặc cho ngườibạn ấy nằm tạm ở đó trước, vết thương của Tần Kỳ nặng thực nhưng đã được y điểm cho mấy nơi đại huyệt rồi, không còn chảy máu như hồi nãy nữa nên hiện giờ Tần Kỳ đã ngủ say, trà trộn trong đống xác người khác, không để ý nhìn kỹ thì không sao hay biết y chưa chết cả.

Nghĩ tới đó, Mạc Định nhìn Tôn Sát một cái, ngờ đâu Tôn Sát cũng có chung một ý nghĩ như y, nên khi hai người đưa mắt nhìn nhau một cái đã biết tâm ý của nhau liền.

Mạc Định đã xuất hiện trong sương mù, liền múa chưởng tấn công tới Lôi Hỏa lão, thế công của y mạnh như vũ bão...

Tôn Sát không chần chờ gì hết, cũng múa chưởng xông lại đánh úp Lôi Hỏa lão.

Sự thực khi chúng vừa đưa mắt ra hiệu cho nhau thì lão Tam của nhóm Hắc Sát tam ma đã thấy liền, nhưng y chỉ nhếch mép cười khì một tiếng tỏ vẻ đắc chí thôi.

Lôi Hỏa lão vì đứng gần Mạc Định với Tôn Sát mà lưng lại hướng về chúng, nên khi Mạc Định vừa ra tay tấn công một cái, chưởng lực đã lấn át tới phía sau lưng y liền.

Tuy thế công của Mạc Định và Tôn Sát lợi hại thực, nhưng Lôi Hỏa lão cũng không phải là tay tầm thường, nghe tiếng gió động y đã quay người lại giơ song chưởng lên chống đỡ và chân thì thuận thế lui ngay về phía sau. Tuy vậy y vẫn bị hai địch thủ đẩy lui hai bước.

Nhân dịp ấy Mạc Định với Tôn Sát liền thừa cơ nhảy luôn ra ngoài đấu trường.

Lôi Hỏa lão, Phong Hỏa lão, và Vân Vụ lão trong hàng tứ lão liền quát tháo và vội đuổi theo hai người ngay.

Mạc Định và Tôn Sát biết dù sao hôm nay cũng không thể tránh khỏi một cuộc kịch chiến, nên cả hai đều quay người lại chống đỡ chứ không chạy nữa.

Lão đại của nhóm Hắc Sát tam ma thấy vậy liền đưa mắt ra hiệu cho hai em rồi cả ba cùng xông vào đánh, để mong cướp được vật báu.

Biết chạy không sao thoát được, Tôn Sát phải đứng lại chống trả mấy kẻ địch lợi hại, nhưng tay phải của y vẫn nắm chặt con ngựa Linh Chi và chỉ dùng tay trái để đối địch thôi. Trong những chưởng phong của bọn ma đầu, y còn thấy có những lằn khói nhợt nhạt và tanh hôi vô cùng. Y đã kịch chiến suốt đêm, nội lự chao tổn rất nhiều, chân tay rời rã mà địch thủ toàn là những tay cao cường như thế, cho nên càng đấu thêm bao nhiêu lâu y càng thấy nguy hiểm bấy nhiêu.

Đột nhiên có ánh sáng xanh nhợt của mấy đôi mắt chớp nháy một cái. Tôn Sát biết là nguy đến nơi vội giơ chưởng lên chống đỡ và thừa thế lui luôn về phía sau.

Chưởng lực của y va chạm vào chưởng lửa của Tam Ma chỉ nghe thấy kêu bùng một tiếng, y đã rú lên thực lớn, người loạng choạng mấy bước, mồm hộc máu tươi ra tức thì. Con ngựa Linh Chi ở trong tay cũng bị bắn ra ngoài xa.

Đồng thời Tỷ Ảnh Trấn Tam Sơn cũng kêu hự một tiếng, sắc mặt nhợt nhạt lùi bước lia lịa. Cũng trong lúc đó đã có một cái bóng người nhanh như điện nhảy lên trên cao đuổi bắt con ngựa Linh Chi vừa sút khỏi tay của Tôn Sát đang bay lơ lửng ở trên cao...

Lôi Hỏa lão với Vân Vụ lão vội nhảy lên thúc mạnh vào người có đôi mắt xanh biếc vừa nhảy lên trước. Người đó vội giơ hai chưởng ra chống đỡ. Sau một tiếng kêu bùng, cả ba cùng rớt xuống đất hết.

Con ngựa Linh Chi bị Tôn Sát cầm chặt bấy lâu, dù bây giờ nó được thoát khỏi bàn tay ma rồi nhưng không thấy nó linh động như trước nữa, hình như nó đã chết rồi thì phải. Khi nó rớt xuống bên dưới lại rơi ngay vào mặt của Kiếm Phi đang nằm ở dưới đất nửa m êman nửa tỉnh và mặt đang nhăn nhó kêu đau.

Lúc ấy Kiếm Phi vì quá đau, mồ hôi toát ra nhơn nhớp như nước hồ loãng, chàng bỗng thấy ánh mắt dịu hẳn và một mùi thơm xông vào mũi đưa lên trên đầu, liền cảm thấy đầu óc tỉnh táo và bớt đau ngay.

Đồng thời chàng cũng thấy một luồng hơi sức ở đâu tới khiến chàng đứng dậy ngay được, tuy vẫn còn đau đón, nhưng dễ chịu hơn trước nhiều. Chàng vừa giở người một cái đã chộp được con ngựa Linh Chi, chàng vội đưa mắt nhìn đã thấy bóng người ở tứ phía và nhất là ba người có đôi mắt xanh biếc nhanh như điện chớp nhảy xổ lại tấn công chàng.

Người của chúng chưa tới mà kình lực và chưởng phong của chúng đã áp đảo vào người của chàng rồi. Chàng thấy thế công của định mạnh như vậy hãi sợ vô cùng không kịp nghĩ ngợi gì hết vội tung mình nhảy lui về phía sau rồi cắm đầu chạy vào trong rừng.

Bọn người đuổi theo nhanh như điện chớp và vừa đuổi vừa quát lớn :

- Tiểu tử, nếu đúng lại chúng ta sẽ tha chết cho, bằng không thì đừng có hòng tẩu thoát.

Lúc ấy chàng vẫn còn nửa mê nửa tỉnh nên tuy tay cầm con ngựa Linh Chi, mũi ngửi thấy mùi thơm nhưng vết thương trong người lại nổi cơn đau nhức. Chàng càng lo sợ thêm cứ thấy đường là cắm đầu chạy và giở hết tốc lực của pho Long Vân Độn ra như một làn khói chạy thẳng vào trong rừng núi.

Phía sau chàng, Thượng Quan bảo Tứ lão với Hắc Sát tam ma đang lướt nhanh như người mũi tên đuổi theo chàng. Dần dần chàng đã bỏ xa Đoạt Mệnh nhai, đường núi càng ngày càng dốc và chàng đã chạy vào trong một khu rừng núi trùng điệp rồi.

Trong rừng những tiếng cú kêu, vượn hú ra nghe rất thiểu não, và hãi hùng.

Lúc ấy trống đã điểm canh tư, người chạy kẻ đuổi ở trong rừng núi hoang dã được hơn bốn mươi dặm đường. Kiếm Phi thấy phía đằng trước là một sơn cốc hoang vu khôn tả. Dưới ánh sáng trăng lặng lẽ, càng vào sâu bao nhiêu càng cảm thấy hoàn cảnh bên trong rùng rợn bấy nhiêu.

Chung quanh là những hòn đá lởm chởm, dướ ánh sáng lờ mờ trông như những bóng ma lố nhố. Xuyên qua sơn cốc vừa hẹp vừa dài ấy lại tới một quãng đường cỏ lau mọc cao đến tận vai. Đâu đâu cũng có những đóa ma hoa xanh rờn khủng bố trông qua đến run người.

Trên bước đường cùng, Kiếm Phi phải chạy trốn kẻ thù vào đây nên không còn sợ hãi nữa, chàng cứ tiến mãi vào trong sâu.

Nhưng bất cứ người có võ công cao siêu đến đâu đã vào trong đó thì không hy vọng gì sống sót cả, và cũng không có một ai hiểu biết tại sao những người đó lại không ra được.

Lúc ấy cũng vừa đêm trăng tròn và ngay đúng lúc canh tư, cũng như những lần trước, trong sơn cốc lại có tiếng sài lang hú khủng khiếp vọng ra.

Kiếm Phi đã chạy vong mạng tới đây, tuy chàng nửa mê nửa tỉnh nhưng chàng cũng cảm thấy rùng mình kinh hãi.

Tứ lão, Tam ma mong ngăn cản được chàng, nên chúng hết sức đuổi lên để chặn đường không cho chàng chạy vào sơn cốc.

Nhưng chàng cứ nghiến răng mím môi cắm đầu xông vào trong thung lũng ấy.

Tứ lão, Tam ma thấy vậy đều nhìn nhau thở dài một tiếng rồi chán nản quay mình đi ra.

Vì chúng nhận thấy công lực của chúng chưa đủ sức vào Lang Hú cốc, cho nên chúng đành phải cắn răng bấm bụng mà rút lui.

Vào tới trong sơn cốc, Kiếm Phi càng thấy mình mẩy đau nhức thêm, người cứ run lẩy bẩy hoài. Sau cùng chàng loạng choạng mấy bước rồi nằm gục xuống đất chết giấc luôn.

Tay phải của chàng vẫn còn nắm giữ con ngựa Linh Chi đã chết và lại để kề ngay vào mồm của mình, chàng chỉ thấy mùi thơm lạ lùng xông vào mũi, khiến chàng tỉnh táo dần.

Một trống canh sau, mặt trời đã bắt đầu mọc, tiếng sài lang hú đã dứt từ hồi nào không hay. Kiếm Phi khẽ rên rỉ một tiếng lóp ngóp bò dậy.

Chàng thấy những vết thương ở trong người đã bớt đau liền đưa mắt nhìn chung quanh, thấy mình nằm ở trênlối đi đá mọc lởm chởm, hai bên đầy bùn lầy, trên mặt bùn có một làn khói màu hồng bốc lên và thỉnh thoảng có những bọt nước nhô lên kêu lõm bõm. Ngoài những tiếng kêu ấy ra thì bốn bề yên lặng như tờ. Sự yên lặng chứa đầy khủng khiếp và chết chóc.

Kiếm Phi quay đầu lại nhìn thấy cốc khẩu cũng bị làn sương mù kia che lấp rồi.

Chàng hơi suy nghĩ một chút, nhận thấy quay trở ra thế nào cũng chết, chi bằng đi thẳng vào bên trong may ra lại còn có lối thoát. Quả thực chàng không biết nơi mà chàng vào là Lang Hú cốc Luân hồn xứ, nơi mà hơn trăm năm nay hễ ai nói đến đều phải hoảng sợ đến biến sắc mặt.

Nếu chàng biết nơi đây là chốn khủng khiếp như thế thì chàng không dám tò mò đi vào bên trong đâu.

Nhưng chàng không hay biết gì hết nên cứ đi theo con đường đá mọc lởm chởm ấy mà từ từ tiến thẳng vào phía trong, lối đi chàng ngày càng chật hẹp và bước đi của chàng cũng chậm chạp, vai bên trái của chàng vì bị thanh đoản kiếm dị hình cắm ngập cán, nên đã hoàn toàn tê liệt, chàng cứ bước thấp bước cao tiến thẳng về phía trong.

Đi được vài chục trượng, chàng thấy đầu óc choáng váng, đom đóm lửa hiện lên ở trước mắt, đầu óc nặng nề. Chàng vội cầm con Linh Chi lên ngửi, quả nhiên ngửi một hồi đã thấy dễ chịu liền.

Chàng thấy chung quanh vẫn có hơi mù màu hồng bao phủ, những bùn lầy ở hai bên lôi đi có một mùi tanh hôi bốc lên khiến chàng ngửi thấy buồn nôn ọe ngay. Đột nhiên chàng thấy chỗ cùng đường có một sườn núi cao lớn xuất hiện.

Sườn núi ấy trông giống hệt một con sài lang hung ác khổng lồ, mồm con sài lang há to, hai hàm răng lởm chởm, con đường mà chàng đang đi lại chạy thẳng vào mồm con sài lang ấy.

Chàng phấn chấn vô cùng, liền rảo bước tiến lên, nhưng lúc ấy vì bị thương quá nặng, dù chàng có vận hết chân khí nội lực ra cũng chỉ có hạn thôi. Dần dần chàng đã đi tới ttrước mồm con sài lang. Bên trong có những luồng gió thổi ra giá lạnh buốt xương khiến chàng phải sờn lòng rợn tóc gáy.

Chàng ngẩng đầu nhìn vách núi cao lớn và hùng vĩ ấy, đầu con sài lang là một tảng đá lớn, chàng do dự một chút rồi vẫn bước chân đi thẳng vào, từ chỗ hàm răng vào tới cổ họng con sài lang có một con đường đi nho nhỏ. Lại từ cổ họng đi thẳng vào bên trong là một đường hầm, vách tường của đường hầm ấy đều xây bằng đá đỏ bóng nhoáng.

Trong đường hầm thỉnh thoảng có những làn sương mù đỏ như mơ như mộng toát ra. Trong những làn sương mù đỏ ấy xen lẫn cả mùi thanh, đường hầm ấy càng đi sâu vào bao nhiêu càng dốc và trơn tuột bấy nhiêu, chàng vừa đi vừa đưa con Linh Chi lên ngửi.

Đi được một lát lâu, chàng thấy phía đằng trước bỗng sáng tỏ. Thì ra chàng đã đi tới một đại điện, bên trong có những ánh sáng châu báu tỏa ra những luồng sáng chói lọi.

Chàng bước chân vào điện thấy bốn bên vách đều có khảm những châu báu ngũ sắc làm hoa cả mắt. Đột nhiên chàng trượt chân một cái suýt tí nữa thì ngã ngửa về phía sau.

Chàng cúi đầu nhìn, liền giật mình đánh thót một cái, mồ hôi lạnh toát ra.

Thì ra trên mặt đất có những xương người nằm ngổn ngang chàng kinh ngạc vô cùng và bụng bảo dạ rằng :

- “Nơi đây là đâu, sao mà có lắm xương người thế này?”

Sự thực những bộ xương mà chàng trông thấy đó chỉ có chừng hơn mười bộ thôi mà đều là những nhân vật xưa kia chỉ dậm chân một cái cũng đủ làm cho thiên hạ biến sắc, nên họ mới có đủ công lực cầm cự vào tới được chốn này.

Còn những tay yếu ớt hơn hay tài kém hơn thì chỉ vào được lối đi của sơn cốc là ngửi phải Hấp huyết độc chưởng đã ngã lăn ra chết ngay, hoặc trượt chân xuống dưới bùn lầy rồi sa lầy mà chết mất tích.

Kiếm Phi định thần giây lát rồi lại bước qua những đống xương đó mà đi thẳng vào bên trong.

Bỗng có một giọng khàn khàn yếu ớt ở chỗ cách đó không xa nói vọng tới :

- Nhỏ kia, sao ngươi lại vào được nơi đây?

Trong chốn kinh khủng rùng rợn như thế này bỗng có giọng nói nổi lên như vậy, làm sao mà chàng không thất kinh. Chàng vội đứng lấy thế mà ngẩng đầu lên nhìn về phía có tiếng nói đó. Chàng nhìn kỹ mới thấy một ông già gầy gò bé nhỏ râu dài xuống tận ngực, đầu tóc rối bù đang ngồi xếp bằng tròn, mình mặc một cái áo màu xanh xẫm.

Sắc mặt của ông già ấy u ám khôn tả, sở dĩ ông già trông khó coi là vì lông mày và râu của ông ta rối bù không có một chút bóng bẩy nào, tựa như râu và tóc của những người đã chết mấy trăm năm rồi vậy, nhưng hai mắt ông ta lại sáng lạ lùng.

Kiếm Phi định thần giây lát rồi đáp :

- Tiểu bối tên là Kiếm Phi bị kẻ thù đuổi chém giết, rồi lỡ chạy vào trong sơn cốc này, mong lão tiền bối lượng thứ cho.

Ông già gầy gò nhỏ bé thở dài một tiếng rồi với giọng già nua yếu ớt hỏi lại Kiếm Phi rằng :

- Nhỏ kia, ngươi có biết nơi đây là đâu không?

Kiếm Phi ngẩn người ra đáp :

- Tiểu bối không được rõ.

Ông già thở dài một tiếng lại nói tiếp :

- Nơi đây là Lang Hú cốc Luân hồn xứ đấy!

Kiếm Phi nghe nói cả kinh vội hỏi lại :

- Có thực không?

Ông già rầu rĩ đáp :

- Thực đấy!

- Tiền bối là...

Kiếm Phi đoán chắc ông già này thế nào cũng là Cốc chủ chứ không sai.

Ngờ đâu ông già cúi đầu thở dài rồi nói :

- Hà! Lão phu vào trong sơn cốc này tất cả đã ba mươi chín năm rồi.

Nói tới đó, ông già thở dài mấy tiếng, Kiếm Phi chưa kịp lên tiếng hỏi thì ông già đã hỏi trước :

- Cậu nhỏ kia, sao cậu vào được trong này?

- Lão tiền bối hỏi tiểu bối vào trong này ư?

- Hừ! Sao lão phu lại không biết ngươi vào cơ chứ, lão phu chỉ hỏi tại sao ngươi vào được mà không bị thứ chướng khí độc kia giết chết.

Kiếm Phi ngạc nhiên hỏi :

- Chướng khí độc là cái gì thế?

- Những sương mù màu hồng ở trên mặt bùn lầy bốc lên đó, chính là Hấp huyết độc chướng đấy và cũng là một thứ sương mù độc nhất ở hai bên lối đi.

- Tiểu bối không biết.

Ông già ngắm nhìn Kiếm Phi một hồi rồi đột nhiên hỏi tiếp :

- Tay cậu cầm cái gì thế?

- Ngựa Linh Chi vạn năm.

Ông già nghe chàng nói như thế, mặt bỗng biến sắc và thở dài một tiếng nói tiếp :

- Nếu cậu tới sớm mười năm không những lão phu tái xuất sơn được và cậu cũng có bổ ích lây.

Kiếm Phi không hiểu, ngạc nhiên nhìn ông ta.

Ông già với giọng êm dịu nói tiếp :

- Cậu nhỏ mau lại đây.

Kiếm Phi nghe lời đi tới gần, chàng mới hay ông già đã thoi thóp sắp chết, ông ta giơ tay ra lấy cái hồ lô nhỏ ở phía sau lưng ra mà hỏi tiếp :

- Cậu có biết lão phu là ai không?

- Tiền bối không biết.

- Lão phu là Vạn Độc Thần Hành Khách Thuần Vu Khoán, người Chưởng môn của phái Bách Độc.

Kiếm Phi nghe nói hoảng sợ đến biến sắc mặt, vì Thành Hành Khách xưa kia ở trên giang hồ tiếng tăm lừng lẫy. Dù là tay cao thủ lợi hại đến đâu gặp phải ông ta đừng có hòng sống, nhưng trong đời ông ta không làm một việc gì độc ác, tính tình tuy quái dị nhưng không giết một người nào vô tội cả, cho nên ở trong võ lâm ông ta rất được mọi người kính ngưỡng. Ba mươi chín năm trước đây vì tranh ngôi báu của “Thiên hạ lệnh chủ”, ông ta chỉ có thua một thế mà bị Ngũ Bộ Thất Hồn Phương Thiên Trấn của Hắc đạo đánh bại, cho nên ông ta mới ôm hận đi vào trong Lang Hú cốc này và từ đó tới nay không thấy ông ta trở ra nữa.

Không ngờ ba mươi chín năm sau chàng lại được gặp ông ta ở nơi đây. Kiếm Phi đang suy nghĩ thì Thần Hành Khách lại hỏi tiếp :

- Cậu bé, lão phu sắp chết đến nơi rồi! Sau khi lão phu chết, nếu cậu có dịp may ra khỏi đây thì lão phu muốn nhờ cậu làm giúp một việc này.

Kiếm Phi vội đáp :

- Việc gì, xin lão tiền bối cứ dặn bảo!

Thần Hành Khách thở dài một tiếng và lẩm bẩm tự nói :

- Tuy lão biết chưa chắc cậu đã ra khỏi nơi đây, nhưng dù sao cậu vẫn còn sống, vả lại trong tay áo lại có con ngựa Linh Chi vạn năm...

Nói tới đó, ông ta móc túi lấy một cái Hắc Thiên lệnh phù ra đưa cho chàng và nói tiếp :

- Đây là lệnh Chưởng môn của Bách Độc môn, cậu hãy cầm lệnh này giao cho người Chưởng môn của Bách Độc môn.

Kiếm Phi cung kính đỡ lấy phù lệnh.

Vạn Độc Thần Hành Khách lại lấy hai cái hộp rất tinh xảo ra, một cái có hoa, một cái màu trắng đưa cho Kiếm Phi, và nói tiếp :

- Cái hộp có hoa này là Dị Dung đơn, còn cái hộp trắng này là Hoàn Dung đơn, lão phu hết đời rồi, bây giờ lão phu có giữ cũng vô ích, nên lão phu tặng cả cho cậu đấy.

Kiếm Phi kinh ngạc hỏi lại :

- Thuần Vu lão tiền bối, như vậy làm sao...

Thuần Vu Khoán trầm giọng nói tiếp :

- Lão phu chỉ còn sống được vài ngày nữa là cùng, lão phu còn giữ những vật này nữa làm chi!

Nói xong ông ta cầm cái hồ lô nhỏ đổ vào gang bàn tay năm viên thuốc to bằng trái long nhãn, và bảo với Kiếm Phi :

- Thuốc này là Tục mệnh hồn của lão phu, có thể trị bách độc, cậu hãy uống một viên đi.

Kiếm Phi đang định từ chối thì ông già lại nói tiếp :

- Cậu bé, lão phu thấy ngươi bị trúng độc rất nặng nhưng linh đơn này cũng chỉ có thể chữa cho độc thế khỏi lan ra thôi.

Bất đắc dĩ Kiếm Phi đành phải cầm lấy một viên uống luôn. Chàng vừa uống xong ông ta lại nói tiếp :

- Cậy ngồi xuống để lão giúp đẩy tan sức thuốc.

Kiếm Phi vâng lời ngồi xuống, bỗng cảm thây linh đài huyệt tê tái rồi chàng mê man bất tỉnh.

Vạn Độc Thần Hành Khách liền cướp lấy con ngựa Linh Chi vạn năm của chàng, sắc mặt thay đổi luôn, rút cục ông ta thở dài một tiếng rồi tự nói :

- Ngũ tạng của ta đã nứt hết, kỳ độc đã tấn công vào tới tim, dù có con ngựa Linh Chi vạn năm này cũng chỉ sống sót thêm được một vài năm thôi, chi bằng ta giúp cho võ lâm kỳ ba này thành tài, hành đạo giang hồ có hơn không.

Ông ta nói xong, hai mắt bỗng sáng ngời, nhờ sự thay đổi ý nghĩ đó nên Kiếm Phi đã thoát chết.

Rồi Thuần Vu Khoán để tay trái vào Mệnh môn huyệt của chàng, còn tay phải thì để lên trên Bách Hội huyệt.

Hai luồng hơi nóng nơi bàn tay của ông ta dồn sang người của Kiếm Phi, một lúc sau ông ta toát mồ hôi ra như mưa, vội ngừng tay nghỉ ngơi, khi ông ta mở mắt ra lại dùng hai ngón tay rút con dao đang cắm ở trên vai của chàng ra xem xét một hồi mặt tỏ vẻ kinh hãi, bụng bảo dạ rằng :

- “Chẳng lẽ lão ma đầu này lại ra đời chăng? Sao thằng nhỏ này lại trêu ngươi vào y?”

Nghĩ tới đó ông ta vẫn ngồi như trước, hai tay vẫn để lên yếu huyệt của Kiếm Phi, thời gian qua dần, sắc mặt ông ta cũng nhợt dần và người cũng run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm.

Thuần Vu Khoán như đã kiệt sức, ngồi thở hổn hển, có lúc đứt đoạn.

Kiếm Phi tỉnh lại, cảm thấy trong mình đã nhẹ nhàng, chàng nhìn qua vừa lúc Thuần Vu Khoán ngã xuống bất động.

Kiếm Phi hốt hoảng đứng lên :

- Lão tiền bối...

Chàng sờ vào ngực Thuần Vu Khoán thấy tim đã ngừng đập.

Kiếm Phi bùi ngùi một lúc, nâng thi thể Thuần Vu Khoán đặt vào một hốc rồi lấp lại.

Chàng cầm lấy con ngựa bạch vạn niên tiến vào trong...

Kiếm Phi vận toàn thân chân lực ra để bảo vệ lấy thân thể, và đi từng bước một tiến vào bên trong. Chàng không biết chủ nhân của hang động này là ai, nhưng tại sao lại ẩn núp ở trong hang núi dị hình như thế này, và tại sao không để cho người khác đi vào trong hang động và ở đâu lấy ra lắm vật báu như thế, khiến chàng thắc mắc vô cùng.

Chàng rất hăng hái tiến thẳng vào phía trong để mong biết rõ những nghi vấn của mọi người trong võ lâm từ xưa tới giờ không ai biết cả.

Đường hầm ấy dài hơn trăm trượng, đi hết đường hầm vừa tới một cánh cửa lớn làm bằng đá đỏ và đang đóng kín, trên cánh cửa có khắc mấy chữ :

“Lang Hú cốc trong Luân Hồi xứ, Luân Hồi xứ tại Lang Hú cốc, thấy cửa nếu không quỳ xuống vái chén lạy, hồn sẽ về Luân Hồi xứ ngay.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.