Tại sao cười ư?
Thẩm Độc cũng chẳng rõ nữa.
Chỉ cảm thấy rất buồn cười, cười vì đoạn đối thoại kinh hãi thế tục của y và Cố Chiêu, cười vì trong giây phút ngàn cân treo sợi tóc bỗng nhiên Cố Chiêu đâm trượt…
Như thể nghe thấy chuyện buồn cười nhất trần đời.
Như thể nhìn thấy trò đùa hài hước nhất trần đời.
Y không kiềm chế nổi, càng cười càng lớn, thậm chí khiến mấy hộ gia đình ít ỏi trong thành kinh hãi, mở cửa sổ thò đầu ra ngoài xem thử. E rằng mọi người đều nghĩ y là kẻ điên, nhưng y vẫn cứ cười.
Cố Chiêu có nghe thấy tiếng cười hay không, y chẳng quan tâm.
Cười suốt một đường ra khỏi thành.
Mãi đến tận khi ra ngoài được năm dặm, y mới phát hiện mình cười đủ rồi, mệt rồi nên từ từ dừng lại.
Đứng giữa núi rừng hoang vu, ngoảnh đầu nhìn lại.
Tường thành Ích Dương đổ nát, giống như một con dã thú bị thương nặng, nằm phủ phục dưới nền trời tối om om, rụt toàn bộ nanh vuốt của mình vào, không hiểu sao lộ ra khung cảnh lụn bại.
Cờ đen trơ trọi trên đầu tường, phấp phới trong gió đêm.
Thẩm Độc bỗng nhiên nghĩ: Chắc bây giờ trong lòng Cố Chiêu khó chịu lắm nhỉ, nếu cho hắn thêm một cơ hội nữa, hắn có hối hận vì thời khắc đó đã hạ thủ lưu tình không?
Nhưng chuyện này đâu liên quan gì đến y.
Y cụp mắt nhìn hộp gỗ đựng đường phèn trong tay, lấy thêm một viên nữa ra ăn, sau đó mới ngẩng đầu lên, bắt đầu tìm đường.
Đến lúc phải quay về Yêu Ma đạo rồi.
Trên giang hồ hiện giờ, ba chữ “Yêu Ma đạo” mang ý nghĩa là tà ma ngoại đạo, hay như trước đây được gọi là “Ma giáo”. Trên thực thế, thời điểm “Yêu Ma đạo” xuất hiện, cũng chỉ là một địa danh.
Yêu Ma đạo nằm ở Tây Bắc.
Sau khi chiến tranh lắng xuống, buôn bán ở vùng biên giới trở nên phổ biến, hành lang Hà Tây(*) – khu vực hẹp dài lập tức trở thành một tuyến đường bắt buộc phải băng qua, trong đó có một đoạn đường núi dài rất hiểm trở.
(*) Thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc, là một phần của con đường tơ lụa.
Núi cao ngàn trượng, khó như đường Thục.(*)
(*) Giản xưng của Tứ Xuyên là Thục, đường vào đất Thục rất khó khăn, đã được nhiều nhà thơ như Lý Bạch miêu tả: Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên (Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh)
Con đường qua lại được mở giữa hai ngọn núi, lúc đi trên đường, ngẩng đầu nhìn lên, sẽ khiến người ta có cảm tưởng đá trên vách núi sắp rơi xuống đầu, gập ghềnh mà hiểm trở.
Đối với đoàn thương gia, đây là con đường ngắn nhất.
Nếu muốn tránh, phải đi vòng qua ngọn núi bên cạnh, ít nhất tốn hơn nửa tháng. Cho nên dần dà, chỗ này tụ tập rất nhiều cướp đường, đánh giết cướp bóc thương gia đi ngang qua đây.
Một vì đường xá hiểm trở, hai vì cướp đường hung ác, nên được gọi là “Yêu Ma đạo”.
Chữ “đạo”, lúc này vẫn chỉ có nghĩa là “con đường”.
Mãi đến tận sáu mươi năm trước, trên giang hồ có một nhóm ma giáo bị truy sát, phải chạy trốn tới đây, chiếm cứ nơi này, chậm rãi nghỉ ngơi lấy sức, phát triển lớn mạnh, mới có “Yêu Ma đạo” ngày hôm nay.
Mà Gian Thiên Nhai – nơi hiểm trở nhất trên con đường này, chính là tổng bộ của Yêu Ma đạo.
Lần này Thẩm Độc đi, chính là về Gian Thiên Nhai.
Dựa vào hướng của sao Bắc Đẩu tìm đường, thậm chí y còn lười xem phía trước là quan đạo hay là sơn đạo, đường bằng phẳng hay là núi non trùng điệp, một mạch đi về phía Tây Nam.
Không lâu sau, thành Ích Dương đã bị y bỏ lại đằng sau.
Nền trời tối mịt.
Đêm nay không trăng.
Nhưng khi Thẩm Độc ngẩng đầu nhìn trời, không biết vì sao, bỗng nhớ lại một buổi tối nào đó trong rừng trúc tại Bất Không sơn, trăng sáng sao thưa, và còn nhớ cả 3 quyển Phật Tàng.
Nói đến đây, tận khi y và Cố Chiêu rời đi rồi, bên thiền viện Thiên Cơ vẫn chưa truyền ra tin tức 3 quyển Phật Tàng bị trộm.
Hòa thượng ấy…
Rốt cuộc định làm gì?
…
“Bây giờ Phật Tàng bị mất trộm, mưa máu gió tanh đã ngay trước mắt. Việc này giấu giếm chẳng bằng công khai, chúng ta nên chiêu cáo võ lâm, tránh cho sau này rơi vào tình cảnh khó xử…”
“Phương trượng, tuyệt đối không thể!”
“Nếu để giang hồ biết thiền viện Thiên Cơ ta không thể trông giữ cẩn thận, để người khác đánh cắp Phật Tàng, ắt phải chịu tai họa. Kẻ yêu ma đánh cắp Phật Tàng kia, có lẽ cũng không dám để lộ ra. Chi bằng chúng ta suy nghĩ một sách lược vẹn toàn, rồi hẵng quyết định.”
“Duyên Ngộ sư đệ nói có lý…”
…
Chân trời không trăng sáng, đen đặc u ám, ngay cả những vì sao cũng bị tầng mây che kín.
Hòa thượng cầm chuỗi phật châu bằng gỗ tử đàn bước ra khỏi phòng của phương trượng, bốn bề tĩnh lặng, nhưng âm thanh tranh chấp trong phòng vẫn cứ văng vẳng bên tai hắn.
Từng từ, từng chữ, từng câu.
Duyên Diệt phương trượng ngồi ở chính giữa, những người ngồi đây đều là cao tăng đức cao vọng trọng trong thiền viện, nhưng chưa bao giờ, vẻ mặt mọi người nghiêm trọng đến thế, như thể gặp phải đại địch.
Không có ai trách cứ hắn.
Hắn không báo cho thiền viện hành động của mình, tất cả mọi người trong thiền viện cũng không có ai cảm thấy việc Phật Tàng bị trộm hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của hắn.
Dù sao, người có thể phát hiện và đánh cắp 3 quyển Phật Tàng được giấu trong phật châu, năng lực và vận may, không thể thiếu một yếu tố nào.
Không phải chuyện Thiện Tai hắn trấn thủ thì có thể giải quyết.
Mười sáu năm qua đã có vô số người mò vào điện Thiên Phật, cho tới bây giờ Phật Tàng mới bị đánh cắp, đã coi như kỳ tích rồi.
Nhưng chính bản thân hòa thượng lại không cho rằng như vậy.
Trưởng bối sư môn càng khoan dung, càng thấu tình đạt lý, thì áp lực trong lòng hắn càng nặng nề. Thế nên vừa rồi cơ thể thì đứng trong phòng trụ trì, nhưng tâm trí đã ngẩn ngơ sững sờ.
Ngay cả khi sư tôn gọi pháp hiệu cũng không nghe thấy.
Duyên Diệt phương trượng hỏi hắn: “Thiện Tai, ngươi nghĩ sao?”
Hắn thì nghĩ được cái gì đây?
Sinh tử trú dạ, thủy lưu hoa tạ.(*)
(*) Sinh tử ngày đêm, nước trôi hoa tạ. (Trích “Thiền đạo tu tập”)
Trên thế gian, có quá nhiều việc không thể làm gì, tình cảnh khó khăn trước mắt của thiền viện Thiên Cơ cũng vậy, tiến một bước là sai, lùi một bước cũng vẫn sai.
Bước tiếp bước.
Bước nào cũng là vạn kiếp bất phục.
Hắn không tài nào trả lời được.
Không thể làm gì hơn ngoài chậm rãi lắc đầu, nhưng vẫn ngậm miệng không nói, từ phòng trụ trì bước ra ngoài.
Thiền viện thanh tịnh.
Bóng bồ đề đung đưa.
Tăng bào trắng như tuyết, trong bóng đêm tỏa ra thứ ánh sáng kì lạ như ngọc thạch, theo từng bước chân vững vàng của hắn mà im lặng lay động.
Đi qua bậc thang tối om.
Dọc theo dãy tường cao khắc đầy tượng phật.
Vượt qua rừng bia(*) khắc đầy kinh phật.
(*) Rừng bia:
Từng cột từng cột kinh Phật, như từng vị Phật đứng lặng, còn hắn rũ mắt cúi đầu, bước qua nơi ấy, mang trong lòng bí mật không muốn người nào biết, cũng mang trên người đầy tội nghiệt không muốn ai nhận ra.
Vốn định quay về phòng thiền.
Nhưng giờ đây, bỗng nhớ tới căn nhà nhỏ bên trong rừng trúc dưới núi, cảm giác chân nặng như đeo chì, không sao cất bước nổi.
Ngẩng đầu nhìn lên, trước mắt là tòa tháp Phật cao cao.
“Cốc, cốc, cốc…”
Có tiếng gõ mõ, truyền ra từ trong tháp.
Với tu vi võ học siêu việt, ngũ giác Thiện Tai cực kỳ nhạy cảm, nên chỉ nghe thoáng qua đã nhận ra tiếng gõ mõ truyền đến từ tầng thấp nhất trong tháp Phật.
Tòa tháp bảy tầng.
Bên trên treo một bức hoành phi, chữ viết đã có phần loang lổ.
Hòa thượng không cần nhìn cũng biết, bên trên viết hai chữ gì.
Tháp Nghiệp.
Tên của một tòa tháp Phật.
Nghiệp, cũng là nghiệt.
Tội nghiệp, tội nghiệt.
Hắn đứng bên ngoài, lắng tai nghe tiếng gõ mõ hồi lâu, bước chân không hề xê dịch.
Có gió thổi qua.
Tầng mây trôi nổi cuối chân trời trong đêm giá rét, không biết đã qua bao lâu, mặt trăng bị che giấu rốt cuộc xuất hiện, nhưng trong màn sương mù mịt mùng toát lên vẻ mông lung.
Khi tia nắng sáng sớm mỏng manh thanh sạch vương xuống cửa sổ tầng thấp nhất trong tháp Phật, xuyên qua khe cửa chiếu vào phòng, một giọng nói khàn khàn già nua phát ra từ bên trong.
“Chúng sanh trong tâm là gì?”
Thiện Tai ngơ ngác, đáp lời: “Tâm tà mê, tâm cuồng vọng, tâm bất thiện, tâm ganh tỵ, tâm ác độc, những tâm như thế, đều là chúng sanh.”
Âm thanh trong phòng hỏi tiếp: “Thế nào là chân độ?”
Hắn đáp: “Tự tánh tự độ, gọi là chân độ.”
“Tự tánh tự độ, là thế nào?”
“Tự trong tâm chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si, đem chánh kiến mà độ. Đã có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát-nhã đánh phá những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ. Tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, ác đến thì thiện độ.”
(*) Cả đoạn bàn luận trên được trích từ “Kinh Pháp Bảo Đàn” – Phẩm thứ sáu: Sám hối. (´Д`)ヾ
Bàn luận phật pháp, trong thiền viện hắn là đệ nhất.
Âm thành già nua trong phòng nghe hắn đối đáp lưu loát, thật lâu không nói tiếng nào. Mãi đến khi Thiện Tai cho rằng ông sẽ không nói chuyện nữa, bên trong mới truyền ra tiếng cười nhuốm màu tang thương.
“Phiền não vô biên, pháp môn vô tận. Trí càng cao, tuệ càng sâu, phiền não càng nhiều…”
Người ta gọi hắn là “Tuệ Tăng”
Bởi hắn xem qua là thuộc, không cần biết võ học hay phật pháp, chỉ một lúc đã thông thấu, thậm chí vô sự tự thông, giống như tinh hoa đất trời đều tập hợp trên người.
Trong phật môn, người như hắn, được xem như phật đà chuyển thế.
Nhưng hắn lại nghĩ, mình chỉ là xác thịt trần tục mà thôi.
Tháp Nghiệp là một tòa tháp cổ.
Tương truyền Lục Tổ Huệ Năng(1) đã ở trong chính tòa tháp này, nhập định(2) mười ngày, khám phá hồng trần thế tục, sáng tỏ phật giáo đại thừa(3), từ nay về sau tiêu trừ phiền não, ưu sầu chẳng quấn thân.
- Lục Tổ Huệ Năng: 638–713, đắc đạo lúc chưa xuất gia, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông, môn đệ và pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
- Nhập định: Ngồi thiền.
- Phật giáo đại thừa: một trong 2 trường phái lớn của đạo phật, trường phái còn lại là tiểu thừa.
Hòa thượng Diệu Vô.
Tính ra, là sư bá của Duyên Diệt phương trượng, trấn thủ trong tháp, cung phụng xá lợi Phật, đã hơn ba mươi năm.
Tương truyền ông từng giết rất nhiều người, tạo thành vô số sát nghiệp, mặc dù sau đó đã tích đức làm việc thiện rất nhiều, song nội tâm bất an, nên quanh năm đều ở trong tháp, tụng kinh niệm phật sống qua ngày.
Thiện Tai nhìn chăm chú ô cửa, bỗng thấy loáng thoáng có bóng cây ngả trên cánh cửa, nên đảo mắt, lập tức phát hiện ra cách đó không xa trồng một cây hoa vô ưu.
Nhưng không có hoa.
Tuy thiền viện Thiên Cơ là nơi địa khí tụ hợp, nhưng vào tiết trời rét mướt nhường này, cũng chỉ có thể trơ mắt nhìn cây trút lá, nhánh cây lạnh lẽo vắng vẻ.
Hắn yên lặng một lúc lâu.
Cũng nhìn cây hoa một lúc lâu.
Sau đó mới rũ mi, hỏi nghi hoặc luẩn quẩn trong lòng hắn đã lâu: “Đệ tử ngu dốt, lòng có ma chướng. Cũng không biết năm xưa sư tổ thoát khỏi hồng trần, vì đâu, do đâu mà có tâm tư ấy?”
Bên trong phát ra tiếng cười.
Một lát sau, giọng nói già nua gần như mục nát mới vang lên: “Đó là chuyện từ rất lâu về trước…”
Ánh trăng mờ ảo.
Trong ngoài tháp Nghiệp, đều tối tăm.
…
Một đêm nay trôi qua rất nhanh.
Thẩm Độc không dừng bước nghỉ ngơi, đi suốt một đêm, gấp rút lên đường. Từ rừng núi đến cao nguyên, rồi từ cao nguyên tiến vào dãy núi trùng điệp quen thuộc.
Mây che sương phủ, chim bay cũng khó.
Cái bóng mờ ảo của Gian Thiên Nhai, dưới ánh bình minh mỏng manh sáng ngời, như một thanh loan đao(*) treo ngược, toát ra vẻ sắc bén, khiến người ta không thể ngừng cảm thán sự tuyệt diệu của thiên nhiên.
(*) Loan đao: Thanh đao cong.
Ai cũng biết, hang ổ của Yêu Ma đạo được đặt ở đây.
Nhưng mấy chục năm qua, không có bất kỳ một thế lực nào có thể công phá nơi này.
Thực sự dễ thủ khó công, nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai (*). Địa thế cực cao, đường đi phức tạp, nếu người chưa quen thuộc địa hình tiến vào nhất định sẽ bị choáng váng, nói gì đến tấn công nữa?
(*) Một người giữ quan ải, muôn người chẳng phá nổi.
Chưa kể, từ sau khi y trở thành Đạo chủ, cấu kết với Cố Chiêu làm việc xấu, thế lực của Yêu Ma đạo ngày càng bành trướng, không xuất hiện tình huống bị kẻ khác ép đến tận cửa.
Tất cả cửa khẩu và vị trí phòng thủ y đều biết rõ.
Thời điểm tới gần dãy núi trùng điệp, căn bản không cần lo vị trí phòng thủ đã thay đổi hay có người mai phục bên ngoài chuẩn bị giết y. Dựa vào thực lực của y hiện giờ, dám nghênh ngang đi qua Bồng Sơn, đương nhiên cũng dám tung hoành trong Yêu Ma đạo.
Cho nên cứ theo đường cũ mà lên.
Một đường đi không kinh động bất cứ người nào.
Từ chân núi, đến sườn núi, đều là đất đá lởm chởm, gồ ghề hiểm trở. Thỉnh thoảng còn thấy máu tươi đầy đất, dao cắm vào đá, xương khô rải rác, nhưng y cũng chẳng thèm để mắt.
Đối với Thẩm Độc mà nói, những thứ này đã nhìn từ nhỏ đến lớn rồi.
Yêu Ma đạo, chính là địa bàn của y.
Nếu y nhớ không lầm, hôm nay đúng vào ngày nghị sự trong Đạo. Phàm là kẻ có chút quyền lực trong Yêu Ma đạo, như Đường chủ các phân đường, thậm chí hộ pháp, trưởng lão, tất cả sẽ tập hợp trên đỉnh Hàn Tuyệt.
Diêu Thanh, Thôi Hồng.
Kể cả Bùi Vô Tịch, cũng ở đấy.
Đỉnh Hàn Tuyệt nằm ở nơi cao nhất Gian Thiên Nhai, ban đầu vốn là một hang động rộng lớn trong núi, sau đó bị người Yêu Ma đạo đào bới, đục thủng vách núi, hình thành một quảng trường ngay trên vách đá dựng đứng cao ngàn trượng.
Ánh mặt trời bên ngoài chiếu rọi vào, sâu bên trong đặt những chậu than hực lửa.
Xích sắt thô to rủ xuống từ trên cao, điểm thêm vài phần lạnh lẽo cho không gian, nhưng trên mặt đất thì trải thảm nhung Ba Tư thật dày, lúc đặt chân lên vô cùng mềm mại.
Phàm là người ở trong Yêu Ma đạo lâu ngày đều biết, thứ đồ chơi này vốn không có.
Dù sao Yêu Ma đạo hay xảy ra chém giết, trải thảm nhung bên dưới, trời mới biết lúc nào sẽ dính máu, chẳng mấy mà phải đổi cái mới.
Nhưng từ sau khi Thẩm Độc lên làm Đạo chủ, đỉnh Hàn Tuyệt trải thảm nhung đã thành chuyện bình thường.
Có người trào phúng, nói rằng chủ nhân xa hoa lãng phí.
Cũng có người nói y chỉ biết mải mê hưởng lạc.
Thậm chí còn có người lớn mật phỏng đoán, tuy rằng Thẩm Độc sát nghiệt nặng nề, nhưng có lẽ cũng không quen nhìn máu tươi, dù sao trước khi lên làm Đạo chủ, ai chả biết y là một người lương thiện.
Đủ loại suy đoán, mỗi người một kiểu.
Nhưng chỉ có Bùi Vô Tịch biết, bọn họ đoán sai cả rồi.
Thẩm Độc, áo đến đưa tay, cơm đến há mồm, nói y xa xỉ lãng phí, mải mê hưởng lạc không sai, nhưng trải thảm nhung thật dày trên đỉnh Hàn Tuyệt, cũng chỉ vì tu luyện Lục Hợp Thần Quyết, kinh mạch âm tà, sợ lạnh mà thôi.
Bảo tọa của Đạo chủ, đặt trên bậc thềm cao nhất.
Đen kịt, rộng rãi.
Bên trên lót lông chồn đen đắt đỏ, sau lưng treo ba tấm lụa đen thêu mười sáu hoa văn Thiên Ma.
Ánh mắt Bùi Vô Tịch, từ trên bảo tọa, chậm rãi dời ra phía sau bảo tọa, hình như ngẩn người, thật lâu không nói tiếng nào, cũng không cử động.
Chỉ đứng chắp tay sau lưng như vậy.
Những người đứng phía sau, chỉ có thể nhìn thấy bàn tay chắp sau lưng của hắn, da dẻ thô ráp của người khổ công luyện võ, mang theo cả khí thế chỉ người bề trên mới có.
Hắn mặc một bộ trường bào đỏ sậm.
Màu sắc ấy, như nhuộm trong bể máu tươi.
Trâm ngọc cài tóc, vốn mày kiếm mắt sao, nhưng đôi môi mỏng nhếch lên, lại vẽ thêm sát khí lạnh lẽo trên mặt.
Thời niên thiếu ngây ngô rụt rè, đã biến mất trên người hắn từ lâu. Thay vào đó là uy thế tàn khốc tích lũy từ những trận chiến giết chóc.
Vô Thương đao dài mảnh như trăng lưỡi liềm treo bên hông hắn.
Nếu hoa văn vân lôi trên mũi đao nhuốm máu, sẽ đem đến cho hắn khí chất lạnh lùng nguy hiểm.
Ai có thể ngờ?
Thiếu niên mang đầy lòng thù hận với Yêu Ma đạo mười năm trước, chỉ biết cắn răng nhẫn nhục trước mặt người khác, giờ đây đã biến thành dáng vẻ kia, thậm chí còn sở hữu thủ đoạn tàn nhẫn như vậy.
Chỉ đứng sau Thẩm Độc, ngự trị bên trên họ.
Giờ thì Thẩm Độc cũng biến mất.
Chỉ cần hắn muốn, bất cứ lúc nào cũng có thể bước lên bậc thang, ngồi vào bảo tọa mười năm nay chưa từng đổi chủ, từ đây trở thành tân Đạo chủ, xóa sạch vết tích từng tồn tại của Thẩm Độc.
So với ngày xưa, hôm nay người tập hợp trên đỉnh Hàn Tuyệt thiếu rất nhiều.
Còn sống đứng ở đây, đều là kẻ nghe lời.
Còn những kẻ không nghe lời, cơ bản đều bị Bùi Vô Tịch chém đầu, vứt xuống vách núi, đút cho sài lang hổ báo, kền kền liệp ưng ăn.
Tất cả mọi người đang chờ hắn nói.
Nhưng Bùi Vô Tịch chỉ đứng dưới bậc thang thấp nhất, ngẩng đầu nhìn như thế, không nói câu nào. Đường nét cơ thể thanh niên, như thanh đao của hắn, sắc bén góc cạnh.
Thẩm Độc đưa đao của y cho hắn.
Từ ấy về sau, hắn trở thành thanh đao của Thẩm Độc.
Vì y mà trèo đèo lội suối, vì y mà vào sinh ra tử, vì y mà nhảy vào nước sôi lửa bỏng, cũng vì y mà thần hồn điên đảo…
Mười năm sinh tử.
Mười năm mù mịt.
Nhưng mãi đến khi tận mắt trông thấy Vô Thương đao đâm vào cơ thể y từ sau lưng, Bùi Vô Tịch mới nhớ ra, hắn đã quên hỏi Thẩm Độc: “Năm đó, ngươi dám giết cả thiên hạ, nhưng cớ sao lại giữ cho ta một mạng?”
Vì thế mà hắn hối hận rồi.
Hắn không thể làm một con sói cô độc.
Ngay từ đầu, hắn là một con chó Thẩm Độc nuôi. Có đôi lúc khao khát thoát khỏi trói buộc, nhưng khi thật sự mất đi trói buộc rồi, bỗng cảm thấy thật ngỡ ngàng luống cuống.
Hắn quen nghe y sai khiến, quen phủ phục bên chân y.
Hắn thích nghe y nói chuyện, nhìn y giết người.
Hay gương mặt lạnh lùng giáo huấn mình, dạy mình vỗ công; hay dáng vẻ nhàn nhã rũ mắt ăn đường, sau đó khiến kẻ y không thích chạy qua bên Cố Chiêu chịu chết, hay bóng dáng ngồi bên vách núi ngẩng đầu ngắm trăng, cô độc lạnh lùng…
Hắn hận y, cũng yêu y.
Bây giờ mới phát hiện, bản thân không thể rời khỏi y.
Cuối cùng Bùi Vô Tịch từ từ nở nụ cười, sau đó như thì thầm mà hỏi phía sau lưng: “Diêu Thanh, ngươi nói xem, y sẽ quay về chứ?”