Ấn Tượng Sai Lầm

Chương 42




Jack ra khỏi quán trọ Wentworth Arms lúc 7 giờ 30 phút. Một chiếc Rolls-Royce đã chờ sẵn ở cổng. Người tài xế mở cửa sau xe ngay khi vừa trông thấy anh.

“Xin chào ngài”, anh ta nói. “Phu nhân Arabella muốn tôi nói với ngài rằng Phu nhân đang rất mong chờ được đón tiếp ngài”.

“Tôi cũng vậy”, Jack vừa nói vừa bước lên xe.

“Chúng ta sẽ về tới Lâu đài trong vòng vài phút”, người tài xế nói khi anh ta cho xe chạy ra khỏi cổng quán trọ.

Sau khi cho xe dừng lại trước đại sảnh của tòa Lâu đài, người tài xế nhảy xuống và bước lại mở cửa sau cho Jack. Anh bước xuống con đường rải sỏi và nhìn lên. Người quản gia đang đứng trên bậc thềm cao nhất để chờ anh.

“Xin chào ngài”, ông ta nói, “chào mừng ngài đã tới Lâu đài Wentworth. Xin mời ngài đi theo tôi, Phu nhân Arabella đang chờ ngài”.

“Một nguồn tin đáng tin cậy”, Jack lẩm bẩm. Không hiểu người quản gia có nghe anh nói gì không, nhưng ông ta không bình luận gì trong lúc dẫn vị khách tới phòng khách.

“Ngài Delaney, thưa Phu nhân”, người quản gia nói. Hai con chó đứng dậy vẫy đuôi chào anh.

“Xin chào ông Delaney”, Arabella nói. “Tôi nghĩ chúng tôi nợ ông một lời xin lỗi vì sự nhầm lẫn của mình”.

Jack nhìn Anna chằm chằm. Trông cô có vẻ xấu hổ. Rồi anh quay sang Tom. Anh ta đang cười nhăn nhở. Andrews xuất hiện ở cửa. “Bữa sáng đã chuẩn bị xong, thưa Phu nhân”.

Khi Krantz tỉnh dậy lần thứ hai, một vị bác sỹ trẻ đang thay băng cho cô ta.

“Mất bao lâu thì tôi mới có thể hồi phục hoàn toàn?” là câu hỏi đầu tiên của cô ta.

Viên bác sỹ có vẻ giật mình khi lần đầu tiên anh ta nghe thấy giọng nói của Krantz - một cái giọng the thé không hợp với những câu chuyện về cô ta. Anh ta không trả lời cho đến khi đã cắt xong một đoạn băng bằng đôi kéo trong tay.

“Ba, cùng lắm là bốn ngày”, viên bác sỹ vừa đáp vừa nhìn cô ta. “Nhưng tôi sẽ không muốn xuất viện sớm, nếu tôi là cô, bởi vì sau khi tôi ký giấy xuất viện cho cô, điểm dừng chân tiếp theo của cô sẽ là Jilava, một nơi mà tôi tin là cô đã quá quen kể từ thời cô còn phục vụ chế độ cũ”. Krantz không thể quên tòa nhà với những bức tường bằng đá, đầy chuột cống mà đêm nào cô ta cũng viếng thăm để tra khảo những tù nhân mới nhất trước khi trở về ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của cô ta ở ngoại ô thành phố.

“Tôi nghe nói các tù nhân ngày xưa rất muốn gặp lại cô sau một thời gian cô vắng mặt lâu như vậy”, viên bác sỹ nói thêm. Anh ta cúi xuống, cầm lấy mép dải băng rộng trên vai cô ta. “Hơi đau đấy”, anh ta nói rồi giật mạnh bằng một cử chỉ dứt khoát. Krantz không hề rên la. Cô ta không thể để cho viên bác sỹ được hưởng niềm vui chứng kiến sự đau đớn của mình.

Viên bác sỹ cho iodine vào vết thương trước khi đặt lên đó một dải băng mới. Sau đó anh ta băng lại vết thương một cách thành thục và đặt cánh tay phải của cô ta vào một sợi dây đeo.

“Có bao nhiêu lính gác?”, cô ta làm như tình cờ hỏi.

“Sáu, và tất cả đều có vũ khí”, viên bác sỹ nói, “và để đề phòng cô tìm cách tẩu thoát, họ đã được lệnh bắn trước rồi báo cáo sau. Tôi cũng đã chuẩn bị trước một giấy chứng tử để họ chỉ việc ký vào”.

Krantz không hỏi gì thêm.

Khi viên bác sỹ đã ra khỏi phòng, cô ta cứ nằm yên và nhìn chằm chằm lên trần nhà. Nếu muốn trốn thoát, cô ta phải tìm cơ hội khi vẫn còn nằm trong bệnh viện. Không ai có thể trốn thoát khỏi nhà tù Jilava, kể cả Ceausescu.

8 tiếng đồng hồ sau đó, cô ta đã khẳng định được rằng lúc nào cũng có sáu lính gác, và có ba ca gác. Ca thứ nhất bắt đầu lúc 6 giờ, ca thứ hai lúc 2 giờ, và ca đêm bắt đầu lúc 10 giờ.

Sau một đêm dài không ngủ, Krantz đã phát hiện ra rằng toán lính gác đêm có vẻ như quá tin tưởng vào đội ngũ đông đảo của họ. Một người trong bọn họ ngủ gà ngủ gật suốt đêm. Một người khác thường lẻn ra ngoài để hút thuốc - không được phép hút thuốc trong bệnh viện. Người thứ ba là một anh chàng chỉ thích tán gái, một người nghĩ rằng mình sinh ra là để làm vui lòng mọi phụ nữ. Anh ta không bao giờ đứng cách xa các nữ hộ lý vài bước chân. Người thứ tư thì dành phần lớn thời gian để phàn nàn về khoản tiền lương ít ỏi của mình và khả năng tiêu tiền của bà vợ. Krantz biết mình có thể giải quyết vấn đề của anh ta nếu cô ta có cơ hội. Hai người lính gác còn lại thì cao tuổi hơn, và biết quá rõ cô ta từ thời chế độ cũ. Một trong hai người đó sẵn sàng bắn vỡ đầu cô ta nếu cô ta nhấc đầu lên khỏi gối. Nhưng kể cả hai người đó cũng cần phải ăn.

***

Jack ngồi xuống và dùng bữa sáng với trứng, thịt muối, cật nướng, nấm và cà chua, tiếp đến là bánh mỳ, mứt cam và cà phê.

“Chắc ông rất đói sau một thử thách như vậy”, Arabella nhận xét.

“Nếu không có Tom, chắc tôi sẽ phải chấp nhận cơm tù”.

“Và tôi e rằng chính tôi là người có lỗi”, Anna nói. “Bởi vì tôi đã chỉ điểm cho người ta bắt anh”, cô nói thêm và mỉm cười.

“Không đúng thế”, Tom nói. “Cô phải cảm ơn Arabella vì đã khiến Jack bị bắt, và cảm ơn Arabella vì đã giúp anh ấy được thả ra”.

“Không, tôi không dám nhận nhiều công trạng như thế đâu”, Arabella vừa nói vừa vuốt ve con chó đang nằm cạnh bà. “Tôi thừa nhận là đã yêu cầu người ta bắt Jack, nhưng chính ngài đại sứ của các ông là người đã giúp ông Jack được, gì nhỉ, theo cách nói của người Mỹ?, nhảy dù”.

“Nhưng có một điều mà tôi vẫn không hiểu”, Anna nói, “cho dù Tom đã nói cho chúng tôi biết mọi chi tiết. Là tại sao anh vẫn theo tôi tới Lâu đài Wentworth trong khi anh biết rằng tôi không còn giữ bức tranh?”.

“Bởi vì tôi nghĩ người phụ nữ đã giết người tài xế của cô sẽ đuổi theo cô tới London”.

“Nơi mà cô ta lập kế hoạch giết tôi?”, Anna trầm giọng hỏi. Jack gật đầu, nhưng không nói gì. “Lạy Chúa là tôi đã không bao giờ phải biết điều đó”, cô vừa nói vừa gạt đĩa thức ăn sang một bên.

“Nhưng đến lúc đó thì cô ta đã bị bắt vì tội giết chết Sergei?”, Arabella hỏi.

“Đúng thế”, Jack nói, “nhưng tôi không biết điều đó cho tới khi gặp Tom vào tối hôm qua”.

“Vậy là FBI cùng lúc cũng theo dõi luôn cả tôi?”, Anna vừa nói vừa quay sang nhìn Jack, lúc này đang phết bơ lên bánh mỳ.

“Trong một khoảng thời gian khá dài”, Jack thú nhận. “Có lúc, thậm chí chúng tôi còn băn khoăn không hiểu cô có phải là kẻ ám sát thuê hay không”.

“Dựa trên cơ sở nào?”, Anna hỏi. “Nghề tư vấn nghệ thuật là một bình phong tốt cho ai đó làm việc cho Fenston, đặc biệt nếu cô ta còn là một vận động viên, và tình cờ sinh ra tại Romania”.

“Và tôi bị điều tra trong bao lâu?”, Anna hỏi.

“Trong hai tháng qua”, Jack thú nhận. Anh nhấp một ngụm cà phê. “Thực tế là, chúng tôi vừa chuẩn bị khép hồ sơ về cô lại thì xảy ra chuyện cô đánh cắp bức tranh Van Gogh”.

“Tôi không đánh cắp nó”, Anna nói bằng một giọng gay gắt.

“Cô ấy tìm lại nó cho tôi, thay mặt tôi”, Arabella nói chen vào.

“Và bà vẫn hy vọng Fenston sẽ bán bức tranh để giúp bà thanh toán nợ nần?”.

“Không”, Arabella trả lời, hơi quá nhanh. “Đó là điều cuối cùng mà tôi muốn”.

Jack có vẻ ngạc nhiên.

“ít nhất là cho đến khi cảnh sát tìm ra kẻ đã sát hại chị gái của Phu nhân”, Anna nói chen vào.

“Tất cả chúng ta đều biết kẻ nào đã sát hại chị gái tôi”, Arabella nói bằng một giọng căm thù, “và nếu kẻ đó bước qua đường của tôi, tôi sẽ bẻ gẫy cổ nó”. Cả hai con chó cùng vểnh tai lên.

“Biết sự thực khác với việc chứng minh sự thực”, Jack nói.

“Vậy là Fenston sẽ thoát tội giết người”, Anna trầm giọng nói.

“Có lẽ đã nhiều lần, tôi ngờ là thế”, Jack thú nhận. “Cục đã vài lần đưa ông ta vào diện điều tra. Có bốn” anh dừng lại - “và bây giờ là năm vụ giết người mang dấu ấn của Krantz, ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể chứng minh mối quan hệ trực tiếp của cô ta với Fenston”.

“Krantz đã giết Victoria và Sergei”, Anna nói.

“Không nghi ngờ gì nữa”, Jack nói. “Và Đại tá Sergei Slatinaru là sỹ quan chỉ huy của cha cô”, Tom nói thêm, “đồng thời họ cũng là bạn thân của nhau”.

“Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể”, Anna nói, giọng đầy nước mắt, “tôi muốn nói là tất cả”.

“Chúng tôi có một bước đột phá nhỏ”, Tom thừa nhận, “cho dù chúng tôi không biết là nó có dẫn tới đâu không. Khi Krantz bị đưa vào viện để các bác sỹ lấy viên đạn ra, thứ duy nhất người ta tìm thấy trên người cô ta, ngoài con dao và một ít tiền, là một chiếc chìa khoá”.

“Chắc chắn nó phải vừa với một ổ khoá nào đó ở Romania”, Anna nhận định.

“Chúng tôi không nghĩ như vậy”, Jack vừa nói vừa xúc một thìa nấm. “Nó có ký hiệu NYRC 13 trên đó. Không có nhiều hy vọng, nhưng nếu chúng tôi có thể tìm ra ổ khoá của nó, có thể điều đó sẽ giúp chúng tôi tìm ra mối quan hệ của cô ta với Fenston”.

“Vậy các anh có muốn tôi ở lại nước Anh trong khi các anh tiếp tục điều tra không?”, Anna hỏi.

“Không, tôi cần cô quay trở lại New York”, Jack nói. “Hãy để cho mọi người biết cô vẫn an toàn và mạnh khoẻ. Cứ tỏ ra bình thường, thậm chí là nên đi tìm việc. Đừng để cho Fenston nghi ngờ”.

“Tôi có nên tiếp xúc với các đồng nghiệp cũ trong văn phòng của ông ta không?”, Anna hỏi. “Bởi vì Tina, thư ký của Fenston, bạn thân nhất của tôi”.

“Cô có chắc chắn là như vậy không?”, Jack hỏi và bỏ thìa dĩa xuống.

“Ý anh là gì?”, Anna hỏi.

“Làm sao cô có thể giải thích chuyện Fenston luôn biết chính xác cô sắp làm gì, nếu Tina không nói cho ông ta biết?”.

“Tôi không biết”, Anna nói, “nhưng tôi biết chính xác rằng chị ấy cũng căm thù Fenston như tôi”.

“Cô có thể chứng minh được chuyện đó chứ?”, Jack hỏi.

“Tôi không cần phải có bằng chứng”, Anna nói bằng một giọng gay gắt.

“Còn tôi thì cần”, Jack nói một cách điềm đạm.

“Hãy cẩn thận, Jack, bởi vì nếu anh sai”, Anna nói, “tính mạng của chị ấy sẽ bị đe doạ”.

“Nếu thế, cô càng cần phải trở về New York và liên lạc với cô ta càng sớm càng tốt”, Tom nói để làm dịu bầu không khí.

Jack gật đầu đồng ý.

“Tôi đã đặt chỗ trên chuyến bay chiều nay”, Anna nói.

“Tôi cũng vậy”, Jack nói. “Heathrow à?”.

“Không, Stansted”, Anna nói.

“Này, thế thì một trong hai người phải đổi chuyến bay thôi”, Tom gợi ý.

“Không phải tôi”, Jack nói. “Tôi không muốn bị bắt lần thứ hai vì tội rình rập một phụ nữ”.

“Trước khi ra quyết định có nên đổi chuyến bay không”, Anna nói, “tôi cần phải biết mình có còn nằm trong diện tình nghi và đang bị điều tra không. Bởi vì nếu tôi là kẻ bị tình nghi, anh vẫn có quyền theo dõi tôi”.

“Không”, Jack nói. “Tôi đã khép hồ sơ về cô cách đây vài ngày rồi”.

“Điều gì đã thuyết phục anh làm thế?”, Anna hỏi.

“Khi chị gái của Phu nhân Arabella bị giết, có một nhân chứng quan trọng có thể cung cấp chứng cứ ngoại phạm cho cô”.

“Và đó là ai vậy, liệu tôi có thể biết không?”.

“Tôi”, Jack đáp. “Bởi vì tôi đã theo dõi cô quanh công viên Central, nên cô không thể có mặt ở nước Anh được”.

“Anh chạy trong công viên Central à?”.

“Sáng nào cũng vậy, quanh đường chạy”, Jack nói. “Quanh hồ chứa nước vào các sáng Chủ nhật”.

“Tôi cũng vậy”, Anna nói. “Không bỏ ngày nào”.

“Tôi biết”, Jack nói. “Tôi đã vượt cô vài lần trong sáu tuần qua”.

Anna nhìn anh chằm chằm. “Người đàn ông mặc áo phông xanh ngọc”.

“Cô tuyệt lắm”.

“Anh không quá...”.

“Xin lỗi vì không tham dự được cuộc gặp gỡ của câu lạc bộ vận động viên điền kinh Central”, Tom nói và đẩy ghế ra sau, “nhưng tôi phải quay về văn phòng của mình. Có cả một chồng hồ sơ về vụ 11 /9 mà tôi thậm chí còn chưa có thời gian để mở. Cảm ơn Phu nhân về bữa sáng”, anh ta quay sang Arabella. “Tôi xin lỗi vì sáng nay ngài đại sứ đã quấy rầy bà vào lúc trời còn chưa sáng”.

“Điều này giúp tôi nhớ rằng”, Arabella vừa nói vừa đứng dậy khỏi ghế, “lôi phải viết nốt mấy bức thư, cảm ơn ngài đại sứ và xin lỗi một nửa lực lượng cảnh sát Surrey”.

“Thế còn tôi thì sao?”. Jack nói. “Tôi đang tính chuyện sẽ kiện Lâu đài Wentworth, cảnh sát Surrey và Bộ Nội vụ, có Tom làm nhân chứng”.

“Không có hy vọng”, Tom nói. “Tôi không muốn mất lòng Phu nhân Arabella”.

Jack mỉm cười. “Vậy thì chỉ cần cho tôi đi nhờ tới Wentworth Arms là đủ”.

“Đơn giản”, Tom nói.

“Và bây giờ, khi tôi đã cảm thấy an toàn nếu cùng đi với anh tới Heathrow”, Anna vừa nói vừa đứng dậy, “chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?”.

“Đừng lo”, Jack nói. “Tôi sẽ tìm thấy cô”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.