Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 11: Nay hải đường thơm ngát (3)




Cô cho rằng Triệu Ứng Khác đã sớm đi rồi.

“Sao anh lại…” Cô không hiểu nhìn anh, nhẹ giọng hỏi, “Không nói trước với em?”

Tạ Vụ Thanh rốt cuộc cũng cầm đũa, nhìn mấy đĩa nhỏ trước mặt, nói: “Lúc đó nhiều người xung quanh, chỉ có thể để hắn chờ trước. Anh vốn cũng không phải người rộng lượng, ai chẳng biết”.

Anh trầm mặc gắp một cánh hoa đào. Bánh hoa đào vốn sáu cánh toàn vẹn nay lại thiếu một góc, liếc mắt cảm thấy thật quạnh quẽ.

“Em đi trước đi”, anh buông đũa, “Anh cũng nên đi rồi”.

“Em thích ăn nhất là chén phô mai này, không muốn lãng phí”, cô cầm thìa, hạ giọng nói, “Công tử Tạ nếu có việc gấp thì cứ đi trước. Còn việc có muốn gặp hắn không là chuyện của em, hay nói đúng hơn là chuyện của em và hắn”.

Tạ Vụ Thanh nhìn chằm chằm cô hồi lâu, xuống sạp đẩy cửa ra ngoài.

Hà Vị tập trung đảo phô mai trong chén, dư quang thoáng thấy anh như khẽ gật đầu tạm biệt, rồi cứ thế rời đi.

Còn nói mời anh ăn ngon.

Từ đầu tới cuối anh cũng chỉ nếm một cái cánh hoa đào.



Tạ Vụ Thanh ngồi trong xe, nhìn ra màn đêm.

Vừa nảy ở Đàm Gia Thái, lời cuối cùng Triệu Ứng Khác nhờ Lâm phó quan nói với anh không chỉ có một câu, đầu tiên là muốn chờ gặp mặt Hà Vị, thứ hai là thay người khác truyền lời, nhắc nhở Tạ Vụ Thanh đừng quên cái hẹn tối nay. Triệu Ứng Khác là phụ tá bên cạnh đám hồ ly cáo già, chuyện này không mấy ai biết, nhưng Tạ Vụ Thanh biết rõ.

Tạ Vụ Thanh ngồi ở ghế sau ô tô, hai mắt nhắm chặt, nghĩ đến lúc Hà Vị trầm mặc cúi đầu, dùng muỗng sứ không ngừng khuấy đảo chén phô mai, chỉ cảm thấy chưa bao giờ thất bại đến vậy… Anh từ lúc sinh ra, thậm chí đến khi vứt bỏ cái tên Tạ Vụ Thanh, đều chưa từng có cảm giác thất bại này. Ngày xưa trên chiến trường bò qua không biết bao nhiêu xác chết như gỗ mục bốc cháy, trong chiến hào liều mạng tay trần đào hết lớp đất này đến lớp đất khác chỉ để tìm băng đạn còn dùng được, lúc gãy một chân ngã xuống lòng sông, ôm lấy anh em của mình thở hổn hển chạy đi cấp cứu… Còn có những ngày “đơn thương độc mã” mò vào bụi lau sậy để cướp pháo, bị pháo trên nòng dội vào lưng bỏng rát như đứt lìa một tấm da thịt, những ngày đi dạo qua địa ngục âm ti ấy, không ngờ bị giữ lại ở…

Anh ngẩng đầu thấy trăng sáng, nhìn kinh thành phồn hoa giữa nhân gian.

Ánh trăng lạnh lẽo ngoài cửa xe chiếu sáng Đức Thắng Môn cách đó không xa.

Đức Thắng Môn, cánh cửa thời xưa mỗi lần xuất chinh đều thượng cờ mang ý chúc tụng thắng lợi vẻ vang… Ngày ấy anh vào kinh từng nghĩ, sau này khi rời khỏi nhất định phải đi từ cửa này, một đường vui sướng phấn chấn.

Dưới ánh trăng, Đức Thắng Môn như nhìn chòng chọc vào Tạ Vụ Thanh, mà Tạ Vụ Thanh lại đang ngửa đầu tựa lưng ghế, cùng lúc nhìn lại.

“Công tử từ lúc lên xe không nói chuyện”, Lâm phó quan đuổi tài xế đi, hôm nay đặc biệt làm người lái, “Là vì cô hai Hà à?”

Anh giống như tuỳ tiện trả lời: “Sao không nói là vì tôi muốn gặp lại cô tư”.

“Cô hai Hà…” Lâm phó quan nhìn gương chiếu hậu.

“Thế nào?”

“Ngày đó ở Bách Hoa Thâm Xử, công tử cố tình đến muộn mười phút, là vì muốn để công tử Bạch gặp cô hai Hà trước đúng không?”



Người sau ghế vẫn như cũ không trả lời. Phó quan nắm chặt tay lái, nhìn gương chiếu hậu quan sát Tạ Vụ Thanh.

Tạ Vụ Thanh nhắm mắt, nhẹ giọng nói: “Cậu từng tuổi này, nên tự nghĩ chuyện chung thân đại sự của mình đi. Bằng không mỗi ngày nhìn chằm chằm mấy cô gái bên cạnh tôi, khó tránh khỏi suy nghĩ vẩn vơ. Nếu chúng ta có thể toàn mạng quay về, tôi sẽ thay cậu làm chủ, nhờ chị hai giới thiệu một cô gái hợp tuổi cho cậu”.

Lâm phó quan sợ nhất là bị làm mai, bình thường dùng chiêu này ắt sẽ linh nghiệm, chỉ có điều hôm nay… hình như phó quan cũng trở nên lớn mật hơn: “Ti chức theo công tử vào sinh ra tử đã nhiều năm, chẳng lẽ không nên nghe ti chức nói một câu thật lòng sao?”

Tạ Vụ Thanh cười cười: “Cậu vào sinh ra tử nhiều năm chỉ để đổi lấy một câu thật lòng nhẹ nhàng thế này thôi ư?”

“Dám khoe khoang một câu”, trong mắt Lâm phó quan phản chiếu ánh đèn trong kinh thành, nhưng hết thảy vinh hoa này vốn không thuộc về bọn họ, “Từ lúc ti chức đi theo thiếu tướng quân, lúc nào cũng nhận mình là người trung lương, ngày sau ắt chết nặng tựa Thái Sơn. Kết cục ra đi sớm đã an bài, vì sao không vui vẻ chấp nhận, nghe một câu thật lòng nhẹ nhàng này?”

Sự im lặng dài dằng dặc.

Lâm phó quan vốn tưởng tối nay hỏi đến tận cùng cũng không có kết quả, Tạ Vụ Thanh sẽ không để người khác có cơ hội nhìn trộm nội tâm của mình.

“Cậu nói mấy lời đó, bất quá cũng chỉ muốn hỏi, tôi có lòng riêng hay chưa”. Tạ Vụ Thanh bất ngờ mở miệng.

Anh nhắm mắt lần nữa, thật lâu sau mới khẽ nói: “Cô ấy xứng đáng sống đầu bạc răng long với người mình yêu đến hết đời, không nên lúc đương tuổi trẻ trung lại đi theo một nắm đất vàng”.

Từ đó, trong xe không còn ai nói chuyện.

Tiệc rượu buổi tối vô cùng náo nhiệt.

Đáng tiếc vị khách quý như Tạ Vụ Thanh trong bữa tiệc lại không muốn xả giao, có người lải nhải bên cạnh anh: “Kinh thành là chốn mỹ thực nha, Đường tự hiệu [1] là nổi tiếng nhất, tất nhiên, còn có tám cái đại lâu, tám cái đại cư, công tử không thể không đến thử”.

[1] Đường tự hiệu (hay còn gọi là cửa hiệu có chữ “Đường”) là chỉ một loại hình kinh doanh nhà hàng vô cùng phổ biến ở kinh thành cuối thời phong kiến. Một số nhà hàng mang tên có chữ “Đường” còn là dinh thự của các vị hoàng tử Thanh triều, bên trong có đặt sẵn sân khấu hát kịch, vườn tham quan…

Tạ Vụ Thanh lại nhớ đến chén phô mai ở quán điểm tâm có bán chè quả khô.

Anh một mình ngồi đó bất động, đối với người đi kẻ lại giống như đèn kéo quân, thần thái khác nhau, trang phục khác nhau, nhưng đều là những khuôn mặt mơ hồ, không nhớ rõ được ai. Người đến tìm anh nói chuyện đổi qua mấy nhóm, có người tâm cao khí ngạo nghe bảo Tạ Vụ Thanh là một quân nhân học thức sâu rộng khắp Trung – Tây, dùng tiếng nước ngoài đàm đạo văn học với anh, nhác thấy anh không nói gì, mới cười đổi về tiếng mẹ đẻ hỏi: “Sao công tử Tạ không nói lời nào?”

Tạ Vụ Thanh cầm lấy ly rượu, nhấp một ngụm cho thấm giọng: “Kể cho cậu nghe một lời đồn trên phố. Năm xưa học trò của Trương hương soái có không ít tài tử, trong đó có một thanh niên trẻ được công nhận tài học hơn người. Vừa nhìn thấy Thẩm Tăng Thực [2] tiên sinh liền huyên thuyên đàm đạo chuyện học vấn uyên thâm, Thẩm tiên sinh từ đầu chí cuối không mở miệng. Người thanh niên thấy kỳ lạ liền hỏi, sao ông không nói lời nào?”

[2] Thẩm Tăng Thực là một học giả nổi tiếng cuối đời Thanh, tự Tử Bồi, hiệu Ất Am. Ông từng đỗ tiến sĩ năm Quang Tự, giữa chức quan đề học sứ An Huy, thự bố chính sứ, chủ trương cải cách duy tân đất nước. Sau khi nhà Thanh sụp đổ, ông được mọi người tôn sùng là di lão (tức bề tôi triều trước) có học thức uyên bác, quan tâm chuyện đời, làm thơ sâu sắc, là một tác giả đại biểu cho phái Đồng Quang cận đại, để lại nhiều tác phẩm thơ ca, bài phê bình có tính nghiên cứu.

Cạnh bàn bỗng xuất hiện một thanh niên mặc sơ mi âu phục khoác thêm áo choàng, nói tiếp: “Thẩm tiên sinh lúc đó trả lời người kia, lời của cậu ta đều hiểu rõ, nhưng nếu cậu muốn hiểu những gì ta nói, còn phải đọc sách thêm hai mươi năm”.

Tạ Vụ Thanh hơi nâng mắt, nhìn người đi tới.

Người thanh niên mang theo khí chất mãnh liệt của một văn nhân, khuôn mặt thanh tuấn, lông mày nhếch cao dày rậm, ánh mắt sáng rỡ. Tuy không biết thân phận nhưng có thể đoán được.

“Về sau người thanh niên trẻ kia có được bài học xương máu, dốc lòng học tập, trở thành người nổi danh thiên hạ sau này, Cô lão tiên sinh [3]”, Triệu Ứng Khác kể lại kết cục của lời đồn, “Ý công tử Tạ là muốn khuyên cậu nên trở về có gắng đọc sách, đừng nên tự mãn kiêu ngạo, phụ lòng ông trời đã ban thiên phú”.

[3] Cô lão tiên sinh tên thật là Cô Chấn Phủ, thuộc gia tộc họ Cô ở Lộc Cảng, là một doanh nhân nổi tiếng của Đài Loan, là chủ tịch của Quỹ trao đổi Eo biển (Straits Exchange Foundation), là người sắp xếp cuộc đàm phán trực tiếp đầu tiên giữa Trung Quốc và Đài Loan vào năm 1949. 

Người kia ngượng ngùng, buồn bực rời đi.

Triệu Ứng Khác gật đầu với Tạ Vụ Thanh: “Công tử Tạ”.

Tạ Vụ Thanh cũng khẽ gật đầu lại, không nói gì.

“Chuyện của em trai [4]”, giọng Triệu Ứng Khác thấp đến mức gần như không nghe rõ, “Cảm ơn”.

[4] Chỗ này dùng từ “xá đệ”, có nghĩa là cách gọi khiêm tốn chỉ em trai mình

“Anh nên cảm ơn Hà gia”, Tạ Vụ Thanh vô cảm nhắc nhở hắn, “Sau này nhớ rõ ân tình của Vị Vị”.

Hai người nói đến đây thì dừng lại, đằng xa đám đông vây quanh chủ nhân đến muộn của bữa tiệc, cuối cùng Tạ Vụ Thanh cũng đứng dậy khỏi ghế. Anh tiến lên, bị đối phương nhiệt tình ôm chặt, luôn miệng gọi “cháu ngoan” khiến mọi người nước mắt lưng tròng, làm cho bóng dáng Tạ Vụ Thanh cũng trở nên mơ hồ, hoà lẫn vào tầng tầng lớp lớp ánh đèn rực rỡ.

Sáng sớm hôm sau, vị khách đầu tiên bước vào Chính Minh Trai là một võ quan.

Ông chủ còn chưa đến, trong quán chỉ có một tiểu nhị phục vụ đang cầm giẻ lau chùi khung cửa, võ quan vừa đi vào nói muốn mua thứ tốt nhất trong cửa hiệu, cũng không phải khách quen, lời nói càng kỳ lạ: “Một cái bánh bột ngô trắng, vỏ mềm xốp, trên đó có đóng một mộc đỏ chữ “mai”, một cái bánh sáu cánh, giống hoa đào, màu hồng nhạt. Còn có một cái… giống móng hổ hay móng mèo gì đó, bánh nhân đậu. Và một chén phô mai”.

Tiểu nhị dựa theo miêu tả của đối phương, mang đến một cái bánh hoa hồng trắng vỏ xốp, bánh hoa đào sáu cánh cùng bánh phật thủ.

Chỉ có phô mai là không có: “Cái đó phải ăn tại chỗ”.

“Có thể thêm tiền, gấp mấy lần đều được”.

Tiểu nhị lắc đầu.

Võ quan bất đắc dĩ lễ phép cười cười, cũng không ép buộc: “Vậy tiểu nhị đây chờ một lát, để tôi đi hỏi thử”.

Tiểu nhị nhìn ra ngoài, thấy võ quan đi đến cạnh cửa xe thấp giọng khom người nói hai câu với bên trong. Cửa xe mở ra, một người đàn ông có thân hình cao gầy bước xuống, người nọ có đôi mắt đen như mực khiến người khác khó quên, mỗi một cái nhấc tay hạ chân đều lộ vẻ uể oải do say rượu. Anh cúi đầu tránh tấm vải bố xanh treo trên cửa, hơi gật đầu chào hỏi tiểu nhị.

Tiểu nhị làm việc ở đây đã nhiều năm, nhân vật máu mặt thế nào cũng từng gặp qua, nhưng trước giờ chưa có ai gật đầu chào hỏi hắn lịch sự như thế.

“Ăn tại chỗ đi”. Võ quan nói với tiểu nhị.

Người kia không nói một lời, đi thẳng vào trong như quen đường quen lối.

Tiểu nhị bị doạ ngây người, liền đuổi theo dẫn đường, thấy anh chọn một gian phòng nằm góc trong cùng. Võ quan không cho tiểu nhị đến gần, kéo cửa bích sa môn khép lại một nửa.

Tiểu nhị đến sân sau lấy chén phô mai đầu tiên vừa ra lò hôm nay, tự ngẫm, may là mới làm lúc sáng, không phải đêm qua còn thừa lại. Vị công tử kia khiến người ta có cảm giác giống mấy vở diễn, mỗi khi xuất hiện liền khiến người xem thất hồn lạc phách… U cốc giai nhân, chỗ khác biệt duy nhất, hắn ta là đàn ông.



Mấy ngày sau, Tạ Vụ Thanh giống như bốc hơi khỏi thế gian.

Nói đơn giản chính là, anh biến mất dưới tầm mắt cô. Vài lần cô đến khách sạn Lục Quốc, nơi náo nhiệt khó tránh có người kêu công tử Tạ, nhưng lúc quay đầu lại đều không phải anh.

Chớp mắt lại một năm mới đến.

Cuối năm ngoái Bạch Cẩn Hành nhờ một tờ giấy thông hành đã khiến Kinh Tân chấn động, không lâu sau lại truyền ra hai tấm vé tàu tình yêu, chuyện xưa của anh “cầu mà không đặng” lại được nói đến vô cùng cảm động, khiến các danh viện khắp kinh thành bất ngờ, bao gồm của các chị em nhà họ Hà bên kia.

Chưa được mấy ngày, công tử Đặng gia vào kinh xem mắt, vừa nhìn thấy Hà Vị liền muốn ước định chuyện chung thân, thuận tình hợp ý không ngừng gửi hoa đến nhà họ Hà, càng khiến những người trước nay không được sinh lòng ghen ghét. So sánh với Tạ Vụ Thanh, công tử Đặng mới là người có tiền đồ rộng mở, không giống như công tử Bạch từ bỏ cơ nghiệp gia đình để đi du học, càng không giống Tạ Vụ Thanh phong lưu kỳ quái, cao quý khó gần.

“Từ ngày Tử Cấm Thành tổ chức đại hôn, phong thuỷ nhà chúng ta cũng thay đổi rồi”, Quân Khương lột vỏ hạnh nhân, ném về cái chén sứ trắng, “Nhân duyên của cô hai kéo đến như đoàn quân”.

“Nhưng, nhưng không sao”, Khấu Thanh chớp mắt, nghiêm túc nói, “Hạn, hạn cũng chết, úng úng cũng chết. Tôi vốn nghĩ cô hai sẽ gặp cái hạn kia, lại không ngờ là ứng phải chữ úng”.

“Liên Phòng?” Quân Khương duỗi tay, quơ quơ vài cái trước mắt cô.

Liên Phòng hoàn hồn, mặt đỏ lên, bưng chén hạnh nhân ra ngoài.

“Sao vậy, cô ấy có chuyện gì à?”

“Nhị lão gia về rồi”, Quân Khương mím môi cười, “Cô nói xem là có chuyện gì?”

Trong thư phòng lớn phía đông viện, Hà Vị sờ thử nhiệt độ trên giường, cảm thấy quá lạnh. Cô nói với Liên Phòng vừa bước vào: “Chú hai ở đây không ai chăm sóc thì không ổn, em qua hầu hạ mấy ngày đi”.

Liên Phòng nhẹ gật đầu.

Trên giường, Hà Tri Hành một thân áo dài lam sậm màu kiểu cũ bị Liên Phòng nhét vào lòng một cái lò sưởi cầm tay bằng đồng thau, vì ông mang bệnh lâu ngày nên thị lực kém, nhưng vẫn có thể nhận ra người trước mặt là Liên Phòng: “Hồ đồ. Sao có thể để Liên Phòng đến đây hầu hạ? Người ta là thân con gái”.

“Tôi là con gái thì sao ạ?” Không ngờ Liên Phòng lại nhanh miệng giành nói trước Hà Vị.

“Con gái còn phải cưới gả”, Hà Tri Hành tốt tính, dịu dàng nói, “Đến chỗ ta không tiện”.

“Tôi chính là…” Liên Phòng dừng lại không nói nữa, thấy hai bên tóc mai của Hà Tri Hành bạc trắng, lần đầu tiên nhắc đến chuyện này, “Vốn là nha hoàn của tám ngõ lớn, cũng không có gì kiêng dè”.

Hà Vị tròn mắt nhìn chú hai và Liên Phòng, bị sự lớn mật hôm nay của cô bé doạ một hồi, sợ rằng còn chưa nói xong.

“Cơ thể của lão gia bất quá cũng giống những người đàn ông khác, tôi cũng từng nhìn qua. Không biết trên người lão gia có gì quý giá mà không muốn người khác xem”.



Mắt của chú hai không tốt, nhưng cô lại thấy rất rõ, Liên Phòng nói đến giữa chừng thì gò má ửng đỏ thẹn thùng, mắt cũng phiếm hồng. Ngón tay Hà Tri Hành vuốt ve hai bên mạn đồng của cái lò sưởi trên tay, bất đắc dĩ cười: “Con bé này thật là…”

“Cứ quyết định vậy đi, hôm nay em ở đây, đợi hết mùa đông thì trở về bên kia”. Hà Vị phất tay với Liên Phòng, không để cô bé nói thêm gì khác, chỉ sợ nói thêm một câu sẽ khiến chú hai ngất xỉu.

Mặt Liên Phòng còn chưa hết đỏ, đi ra ngoài bình tĩnh lại.

Hà Vị muốn thăm dò ý tứ của chú hai với Liên Phòng, còn chưa kịp mở miệng đã bị chú hai ngồi cạnh hỏi một câu: “Gặp được Bạch Cẩn Hành rồi?”

Hả? Cô còn chưa nói sao chú hai biết?

Thôi vậy, trước cứ nói rõ mối hôn sự không thành này đã.

Cô đưa cái tráp gỗ đựng đồng hồ quả quýt cho chú hai, chú hai không mở ra, chỉ cười trừ vỗ vỗ vào hộp, cảm khái nói: “Xem ra đã định sẵn rồi. Thời gian căn chỉnh không đúng, tâm ý cũng không thuận”.

Cô vẫn chưa nói, chú hai liền biết hết thảy?

“Lúc gặp con, cậu ta đã đánh điện báo cho cha mình, nói hôn sự này không thể thành, vì con rất giống em tư của cậu ấy. Hơn nữa, con cũng không có ý với người ta”, Hà Tri Hành cười nói, “Cha cậu mắng một trận, nói con gái nhà người ta không có ý gì với mình thì nhanh cút đi, không cần dây dưa không dứt”.

“Điện báo khi nào ạ?” Cô hỏi.

“Ngày 2 tháng 12”. Chú hai đáp.

Đó là sau lần đầu gặp mặt? Hà Vị kinh ngạc, thì ra ngay từ đầu hai người đều có cảm giác giống nhau. Xem như anh em ruột thịt.

“Bức điện báo thứ hai của cậu ấy gửi cho trưởng bối hai nhà, cũng đến chỗ ta”, Hà Tri Hành vỗ nhẹ xấp điện báo dưới chân, “Sau này có thể tìm ở đây, đều để trong này”.

“Nói gì ạ?”

“Đoán chừng cậu ấy phải chờ tới lúc thích hợp mới đi. Bạn cậu ta nói, con lúc trước từng bị Triệu gia từ hôn một lần, lần này phải do con mở miệng trước. Đợi khi con hạ quyết tâm thì cậu ta mới đi”.

Hà Vị cười: “May là con bị hai tấm vé tàu ấy cảm động”.

Hà Tri Hành cười theo: “Đây cũng là chủ ý của người bạn kia, bảo cậu ta phải nói một câu thật lãng mạn, có thể khiến con cảm động, hoá giải tin đồn của con và Triệu Ứng Khác bấy lâu”.

Cô thật sự không nghĩ tới. Hai kẻ kia liên minh với nhau lừa gạt cô… May mắn Bạch Cẩn Hành là người thật thà, đều kể lại toàn bộ sự thật với trưởng bối. Nếu không, chỉ sợ cô vẫn không biết gì.

Chú hai hiếm khi có ý muốn kết giao bạn hữu, “Người bạn kia còn ở trong kinh không?”

“Ai ạ?” Hà Vị hỏi theo bản năng, nhưng từ trong tiềm thức đã biết chú hai muốn hỏi chuyện về Tạ Vụ Thanh.

Hà Tri Hành nhìn cô lớn lên, không cần thấy sắc mặt, vừa nghe giọng nói đã biết cô giả vờ: “Còn muốn có lệ với chú hai sao?”

“Không phải ạ”, cô cúi đầu, túm lấy nhúm lông tơ trên váy, hôm nay cô mặc một chiếc váy liền thân dệt bằng sợi len cashmere, mấy sợi lông trên chất liệu này đủ để cô vặt cả đời… “Lâu không gặp, nói không chừng đã rời kinh rồi ạ”.

“Đành vậy”, Hà Tri Hành tiếc nuối, “Người đó làm chú nhớ đến một người, muốn gặp mặt hỏi chuyện một chút”.

Cô ngẩng đầu: “Người quen của chú hai, có ai mà cháu không biết ạ?”

“Họ Tạ, tự là Sơn Hải”, Hà Tri Hành cười nói, “Mười năm qua cũng chỉ gặp gỡ hai lần, không hiểu sao khi nghe thấy là họ Tạ liền nghĩ đến hắn”.

Đây là lần thứ hai trong ngày mắt Hà Vị trừng to: “Là… gặp gỡ bàn chuyện làm ăn sao?”

Hà Tri Hành hơi gật đầu: “Hơn nữa còn là chuyện làm ăn không ghi sổ”.

Không ghi sổ sách, chỉ nhớ trong đầu, từ trước đến nay đều là Hà Tri Hành và anh trai cô thuật lại.

“Hình như”, Hà Vị dịu giọng nói bâng quơ, “Chính là người đó đấy ạ”.

Hà Tri Hành đường dài bôn ba vừa tới nhà, trước hết phải nghỉ ngơi.

Hà Vị về thư phòng liền nhấc ống nghe, gọi đến văn phòng làm việc của Đặng Nguyên Sơ. Cuối cùng cả hai nơi là Bộ Lục quân và Bộ Ngoại giao hắn đều không chọn, nguyên nhân vì Đặng gia không muốn đứa con trai út của mình thường xuyên xuất đầu lộ diện bên ngoài, vì thế để hắn làm việc trong Bộ Tài chính. Người nghe điện thoại là nhân viên cùng văn phòng, nghe là Hà Vị thì cười bảo sẽ giúp cô truyền lời. Hà Vị chỉ muốn hẹn gặp mặt, nói xong liền cúp máy.

Trời chiều hoàng hôn, Đặng Nguyên Sơ từ trong gió tuyết đi tới, đứng dưới mái hiên  nhìn về phía Hà Vị đã chờ lâu mỉm cười, suýt thì buộc miệng gọi một tiếng “chị dâu”, nhưng sau đó lập tức nuốt lại, cười tủm tỉm chờ Khấu Thanh phủi sạch tuyết trên người mới cắm mặt đi theo Hà Vị vào trong.

Cô đẩy cửa thư phòng ra, Đặng Nguyên Sơ không nhịn được liền hỏi: “Chị dâu có chuyện quan trọng sao?”

…Hà Vị bất đắc dĩ mím môi: “Anh đừng gọi tôi là chị dâu”.

“Hiểu rồi, lần sau nhắc một tiếng”.

“Tôi và anh ấy không có quan hệ gì”.

“Hiểu rồi, lần sau không dám nữa”. Đặng Nguyên Sơ nghiêm túc nói.

Hà Vị còn rất nhiều chuyện muốn hỏi, cũng không để ý chuyện xưng hô nữa, nhẹ giọng nói: “Chú hai tôi muốn gặp Tạ Vụ Thanh, gần đây anh ấy đang ở đâu?”

Đặng Nguyên Sơ vừa nghe xong liền kinh ngạc: “Cô không biết gì sao?”

Biết gì mới được?

Đặng Nguyên Sơ ngồi xuống cạnh Hà Vị: “Cả tháng nay, anh Thanh bị bắt giam, tôi còn tưởng người khác không rõ, ít nhất chị dâu cũng biết”.

Trong lòng cô chấn động: “Giam ở đâu?”

“Hiện đã thả ra rồi”, Đặng Nguyên Sơ thấp giọng nói, “Hai ngày trước vừa mới về Bách Hoa Thâm Xử”.

Đặng Nguyên Sơ kể sơ lược mọi chuyện, cuối năm ngoái, cô cả nhà họ Tạ cùng chồng bị ám sát ở ga tàu Quảng Châu, vì bảo vệ vợ nên tiên sinh đã đỡ ba viên đạn, ngay đêm đó không qua khỏi. Tạ Vụ Thanh biết tin, ngoài mặt không biểu hiện gì khác thường, bốn ngày sau, trong một đêm có đến mười ba người liên quan chờ chết, cũng trong đêm đó, Tạ Vụ Thanh rút súng ngay trên bàn cơm, bắn chết một người chủ chốt từng tiết lộ hành trình của cô cả ra ngoài, hai kẻ tính kế cũng trọng thương mà chết. Anh liền bị bắt giam.

Dưới thế trận bàn cờ, nhà họ Tạ phải hứa dừng mọi chuyện tại đây, không truy cứu nữa, Tạ Vụ Thanh mới được thả ra.

Toàn bộ tin tức đều bị đè xuống đến chút tiếng gió cũng không lọt ra ngoài, trong cảnh sóng yên biển lặng, cô còn đang chúc mừng năm mới đến.



Hà Vị nghe xong mọi chuyện, trong lòng buồn bã. Cô nhìn ngoài cửa sổ, trời đã tối.

“Nếu cô muốn đến, tôi sẽ đi cùng”. Đặng Nguyên Sơ nhìn thấu tâm tư cô.

Lần thứ ba cô tới Bách Hoa Thâm Xử là không mời mà đến.

Đặng Nguyên Sơ dẫn cô vào sân, đến trước cửa sương phòng, vị võ quan trẻ tuổi lần trước đến truyền lời đang dùng một cây búa nhỏ bằng thép không gỉ đập mạnh vào mấy tảng băng, một người khác mang theo nửa thùng nước nóng dội vào mặt băng khiến khói trắng bốc lên. Hai người vừa thấy Hà Vị đến thì dừng tay, đẩy qua đẩy lại muốn người kia đi báo cho Tạ Vụ Thanh, kích động đến nói không nên lời.

Hà Vị bước lên thềm đá, đẩy cánh cửa khép hờ sau tấm rèm đi vào.

Phòng không bật đèn.

Cô đứng trong bóng tối, vừa đi hai bước, người trong phòng ngủ đã phát giác: “Ai?”

Cô muốn nói chuyện nhưng hai mắt lại phủ một tầng sương.

Tiếng bước chân tiến lại gần, đến trước rèm châu, trời tối không rõ là ai, chỉ mơ hồi nhìn thấy một cái bóng, chính là đường nét cơ thể anh… Cô cúi đầu muốn đè nén lệ nóng trên khoé mắt, nhưng lại nghĩ, tối thế này anh sao thấy được.

“Ngày mai… là mùng 8 tháng Chạp”, Hà Vị ngẩng đầu, cách một tầng hơi nước nhìn anh, “Em muốn ăn Tết cùng anh”.

Bóng dáng anh vẫn đứng đó, không nhúc nhích.

“Vừa rồi chỉ là mượn cớ. Em có thể… nói một câu thật lòng không?” Cô cười, giọng nói mang theo âm mũi rất nhẹ, “Trên đường tới đây em đã nghĩ, chỉ cần có thể gặp anh, dù thế nào em cũng sẽ ôm anh một cái. Cũng không nghĩ gì khác…”

Hai mắt cô đau rát khó chịu, lại không muốn nước mắt rơi xuống.

Chợt thấy trong bóng tối, cơ thể anh hơi động đậy, tiến về phía cô.

Cô nín thở, nhìn bóng anh ngày càng gần… Hai chân chạm đất không dám dùng sức, giống như đi trên băng mỏng, chỉ sợ hơi dùng sức một chút băng sẽ vỡ vụn. Mãi đến khi bàn tay người đàn ông áp lên lưng cô, cô mới vững vàng hơn.

Hoá ra… mắt cô chua xót, hoá ra anh gầy hơn rồi, lúc ôm mới cảm nhận được anh tội bao nhiêu.

— HẾT CHƯƠNG 11 —

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.